Thầy tôi, từ một góc vỉa hè b́nh dị của Sài G̣n
Một góc Lữ Gia – nhà thờ Hầm cách nay vài năm, thầy Cù An Hưng lúc không có giờ dạy học thường ghé sạp bán báo của tôi. Lúc đó tôi bán báo để kiếm sống, c̣n thầy ghé chỗ tôi để sống với t́nh yêu lớn của đời thầy: t́nh yêu thi ca.
Có lần thầy Cù An Hưng kể với chất giọng Bắc nhỏ tiếng nhưng âm vực rất vang. Và câu chuyện thầy kể cũng chỉ để kể, không nhằm t́m tới một chuyện truyền đạt kiểu ôn cố tri tân nào. “Bọn chúng tôi lúc trước dạy ở trường tư thục Trường Sơn. Mà này, cậu phải biết là các thầy người Bắc di cư có công mở trường tư ở trong này. Bọn chúng tôi dạy toán, các anh Thanh Tâm Tuyền, Doăn Quốc Sĩ… dạy văn. Giờ giải lao, cùng là giáo sư, ngồi chung một pḥng giáo sư, suốt chừng ấy năm chúng tôi chưa từng vô lễ bước qua bàn các anh ấy. Thường là ngồi bên này cung kính trân trọng lắng nghe từng lời các anh ấy nói về văn chương. Được nghe văn chương từ các anh ấy là ư thức ḿnh gieo mở hạnh phúc và t́m thấy tự do”. Sau này, thầy không kể thêm câu chuyện nào nữa về các vị văn gia lớn đó, nhưng ư nghĩa từ mẩu chuyện của thầy cho tôi một niềm tin rơ ràng rằng, các vị viết văn ngày nay không được trân trọng như đáng ra họ phải được, không được trân trọng v́ lẽ, các nhà văn ngày nay không nhận thức được việc chính ḿnh phải tự trọng trong ư thức tôn trọng văn chương hơn là mong đợi ở xă hội.
Lần khác tôi được chứng kiến sự trân trọng của thầy ở một giới quan hệ xă hội khác. Sạp báo của tôi kê bên cạnh một tiệm phở, tiệm phở này có mùi vị của hủ tiếu ḅ trong khi thầy là người Bắc. Trong nhiều năm đến chỗ tôi thầy chưa bao giờ thử ăn qua phở Nam, dù quán phở này bán khá đắt khách. Sạp báo tôi chỉ có một cái ghế nhựa thấp, lần nào thầy đến, cô chủ quán phở cũng bước ra cầm theo cái ghế nhựa loại có chỗ tựa lưng để mời thầy ngồi và lần nào thầy cũng nói cám ơn cô. Tiếng cám ơn trân trọng v́ chuyện mượn một cái ghế được một ông thầy dạy đại học nói với cô bán phở chưa học qua lớp năm, và được lặp đi lặp lại không một lần quên trong suốt nhiều năm. Những hôm cô bán đắt hàng không kịp nhận ra thầy mới ghé, thầy bước đến gần cô chủ quán hỏi mượn cái ghế, cô chủ quán nhiều khi chỉ gật đầu với thầy nhưng lúc nào thầy cũng nói cám ơn trước khi cầm cái ghế. Có nhiều hôm tôi thấy thầy với y phục chỉnh tề đứng thật lâu chỗ cô đang nấu phở, những hôm như vậy tôi biết là cô bán phở lu bu chưa nói tiếng dạ, hoặc chưa gật đầu với thầy về chuyện mượn cái ghế.
Tôi sẽ không nói sâu về văn chương, thi ca và những giá trị lớn của văn học… Tôi chỉ muốn nói qua những mẩu chuyện b́nh dị tôi nhận từ thầy và tôi có được tấm gương lớn để luôn soi cá nhân ḿnh vào người khác bằng cả sự trân trọng. Sẽ là vu vơ khi nói về tính tự trọng của con người mà không nh́n thấy rằng cá tính cao quư đó, của bất kỳ ai, chỉ sáng rơ khi phẩm chất và những quyền cơ bản của họ được người khác và cộng đồng trân trọng. Với thầy, thầy không đặt điều kiện ai đó lúc giao tiếp với thầy có ḷng tự trọng hay không, thầy chỉ giữ chuẩn mực ứng xử trân - trọng - cám - ơn những người mà ḿnh sống chung đụng hàng ngày giữa đời thường.
Gặp những ngày trong tiết tháng tám âm lịch, trời Sài G̣n thường mưa nhỏ rả rích vào buổi sáng. Những hôm như vậy, cây dù che sạp báo của tôi không thể phủ được để thầy khỏi ướt, tuy nhiên không v́ ngày mưa mà vắng bóng các ông, các bà mà tôi không biết mặt, biết tên tấp xe gắn máy vào chỗ sạp báo, họ không phải ghé để mua báo, họ ghé vô chỉ để cúi đầu thưa thầy Cù An Hưng. Có lần thầy nói với tôi: “Tôi trông họ già hơn cả tôi nữa đấy phải không cậu. Cậu nh́n lại tôi xem nào, có già đến thế không nào!” Lần khác th́ thầy lại nói: “May đấy cậu ạ, các anh, các chị ấy mà dừng lại hỏi chuyện lâu, phát hiện tôi không nhớ được tên các anh chị ấy, thế là thất lễ!”
Lúc di cư vào Sài G̣n thầy mới là một học sinh trung học, nhưng không lâu thầy đă bắt đầu cuộc đời dạy học. Thời đó có nhiều người học muộn, riêng thầy th́ nhảy lớp ở bậc trung học nên lúc đứng trên bục giảng thầy chỉ mới hai mốt tuổi. Thầy tự bỏ nhiều cơ hội mà thế giới trí thức dành cho thầy để chọn nghề dạy học, viết sách. Thầy nói, nỗi buồn lớn của thầy là phụ ḷng kỳ vọng những bậc thầy truyền đạt t́nh yêu toán và muốn thầy theo đuổi chuyên sâu toán học. Nhưng có một nỗi buồn da diết mà tôi cảm nhận được ở thầy, đó là việc thầy không dành tuổi xuân cho t́nh yêu văn chương - thi ca. Với thầy, t́nh yêu này là thứ báu vật đồng hành với quả tim trong ngực mà thượng đế đă ban tặng.
Chọn nghề dạy học nghĩa là thầy đă đi vào trọn vẹn ḍng sông lớn nhất, nơi người thầy như những con tàu chở bản năng con người vươn tới sóng gió trí thức, ánh sáng nhân cách, nơi mỗi người học tṛ là một thuỷ thủ, mỗi người thầy là một người thuyền trưởng, cùng chia sẻ nhiều lần cái chết bản năng trong những đại dương hoang dă để phục sinh đúng tầm vóc văn minh người.
Tôi không biết nhiều về chuẩn mực quan hệ thầy tṛ của các bậc trí thức được ví như kỳ lân - phượng hoàng của thế hệ trí thức lớn xưa kia, nhưng với thế hệ thầy Cù An Hưng và lớp kế cận thầy những năm trước 1975 th́ tôi có biết qua. Ở sạp báo tôi ngày ấy có một người học tṛ của thầy Cù An Hưng, ông thỉnh thoảng đến và dừng lại với thầy lâu hơn những người khác. Ông đi một chiếc xe Honda cũ, dáng người thấp bé và tóc đă bạc trắng đầu. Dù ông không c̣n dạy học nữa nhưng lần nào cũng vậy, ông đến chỉ để kể về học tṛ của ông cho thầy Cù An Hưng nghe. Giữa đời sống đô thị trùng trùng cấu thành và trùng trùng tàn lụi này, hai vị thầy nhắc cho nhau nhớ về học tṛ. Với tôi, những người từng thụ hưởng sự giáo huấn của hai thầy ngày nay không biết tồn tại nơi đâu! Tôi chỉ biết là những lúc ấy hai gương mặt thầy giáo già hiện ra một vẻ đượm buồn.
Tôi không gọi cái t́nh trạng u ẩn buồn đó là hào quang, nhưng nỗi buồn lan toả của hai vị thầy thật sự là thứ ánh sáng của đời sống kư ức dạy học mà từng mạch cảm xúc buồn đó đang soi t́m lớp lớp học tṛ cũ của ḿnh. Trong biển mịt mùng quên lăng, không một vị thầy nào để thất lạc học tṛ mà chỉ có những người học tṛ phũ phàng thổi tắt trong ḷng thầy ánh sáng hy vọng.
Trần Tiến Dũng minh hoạ Hồng Nguyên