Trường Tôi

Huỳnh Ái Tông

 

V́ một Nhóm cựu học sinh Cao Thắng đă h́nh thành, tôi muốn viết một bài về trường Cao Thắng, nhưng c̣n những trường khác, tôi đă mài đủng quần trên bàn ghế ở đó th́ sao, cho nên tôi muốn viết đủ hết những trường, nhất là những ngôi trường nhỏ, trường làng, trường đầu đời tôi đă cập vở đến học.

Tôi sinh ra ở một cù lao sông Hậu, nhà của cha mẹ tôi nh́n ra sông, con sông nhỏ thuộc sông Hậu Giang, chạy dọc theo con lộ đá đường Long Xuyên Châu Đốc, ai đă từng đi xe đ̣ trên đường nầy, sẽ nghe tới địa danh Bắc Năng Gù. Tên ấy theo tôi mấy anh xe đ̣ ngày xưa đă quen miệng, đặt sai tên. V́ chiếc Bắc ấy chạy từ chợ B́nh Mỹ đi sang vùng thánh địa Ḥa Hảo, nơi đó là sông Hậu Giang, bị cù lao chia thành nhiều nhánh, có một nhánh chảy qua làng tôi, đó là cù lao Năng Gù, một nhánh nữa chảy qua nối với Tiền giang. Chiếc bắc ấy không phát xuất từ Năng Gù, không chạy tới Năng Gù, nó chỉ chạy ngang qua trên đường chạy của nó, nhưng chạy gần đuôi của một cù lao kia hơn là đầu cù lao Năng Gù, cho nên Năng Gù và chiếc bắc ấy không có ǵ dính dáng nhau, và cù lao Năng Gù có ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nay là làng B́nh Thủy, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

 

Tôi đă đi hơi xa một chút, xin trở lại bên kia sông là con lộ đá đường Liên Tỉnh 10, nối liền Long Xuyên Châu Đốc, bạn có biết tại sao gọi là Liên Tỉnh 10 không ? Ngày xưa sau khi Lục Tỉnh mất luôn vào tay Pháp, họ chia đất Nam Kỳ ra làm 20 Tỉnh, mỗi Tỉnh xếp theo Thứ Tự sau đây : 1. Gia Định, 2. Châu Đốc, 3. Hà Tiên, 4. Rạch Giá, 5. Trà Vinh, 6.  Sa Đéc, 7. Bến Tre, 8 Long Xuyên ... để dễ nhớ, người ta ghép thành một bài Tứ Tuyệt :

 

Gia Châu Hà Rạch Trà

Sa Bến Long Tân Sóc

Thủ Tây Biên Mỹ Bà

Chợ Vĩnh G̣ Cần Bạc.

 

Tỉnh Châu Đốc thứ tự 2, tỉnh Long Xuyên thứ tự 8, do đó hai tỉnh cọng lại là 10. Ghe ngày xưa cũng có số, ví dụ ghe nào số HF 1 là ghe của chủ ở Gia Định, HF 6 là ghe của chủ ở Sa Đéc. Tôi lại đi xa nữa rồi.

 

Bên kia sông có một ngôi trường, xây tường gạch, lợp ngói móc, có ba lớp và một căn pḥng nhỏ, bên tay phải chừng bằng phần ba lớp học, các lớp nằm trên nền xây đá cao hơn sân trên một thước tây, chú tôi dạy và làm Trưởng giáo của Trường nầy, thời Pháp tên của nó là ECOLE DE B̀NH MỸ, hồi mới dạy, chú tôi ở ngay pḥng bên cạnh lớp, sau chú tôi cất nhà bên cạnh trường, sau nữa chú tôi mua đất trong làng, dời nhà về bên cù lao, hàng ngày đi dạy, chú tôi bơi xuồng qua sông chở theo con và cháu đi học.

 

Cách nhà tôi chừng 200 thước, cũng có ngôi trường làng, cũng xây giống như ngôi trường B́nh Mỹ, nhưng xây thấp hơn, nền chỉ cao hơn sân chừng 4 tấc tây, và có xây lan can ngăn chia giữa hành lang với sân trường. Trước sân trường có trồng mấy cây Ô Môi, gần Tết ô Môi trổ hoa màu tím trông rất đẹp, trái ô môi bằng cườm tay dài từ 3. 4 tấc đến một thước, bên trong có những miếng ngăn, cách nhau chừng đầu đủa ăn, mỗi miếng nầy có cái hột dẹp và có những cơm màu nâu sậm đen, ăn nó ngọt, ăn nhiều bị táo bón, nhiều người rất thích ăn ô môi.

 

Tôi sanh năm Tân Tỵ (1941), lúc tôi biết, hàng ngày chú tôi bơi xuồng sang sông, chở theo anh tôi, con chú tôi, do đó cha tôi cũng cho tôi theo anh sang bên kia sông học, anh tôi lớn hơn tôi ba tuổi nên học với chú tôi dạy chung trong một lớp, hai tŕnh độ Cour Moyen và Cour Supérieur, ai ở Châu đốc biết thầy giáo Huỳnh Bá Nhệ ấy là chú tôi.

 

Tôi học Cour Élémentaire với thầy giáo Lê Văn Thọ, thầy vở ḷng của tôi, ai là học sinh Cao Thắng có bằng Tú Tài Kỹ Thuật, lật phía sau lưng, có thể thấy chữ kư và tên của người viết bằng Lê Văn Thọ, đó là thầy tôi, sau nầy về làm việc tại Pḥng Khảo Thí Nha Kỹ Thuật Học Vụ.

Thầy Lê Văn Thọ - Tôi - Lê Văn Khải con Thầy, bạn học thuở ấu thơ

Trường đầu đời nầy tôi có nhiều kỷ niệm, tôi nhớ sau khi đi học đă mấy ngày, một hôm tập viết, thầy tôi bảo lấy thước gạch hàng, tôi không có thước vừa khóc vừa chạy sang lớp anh tôi để mượn cây thước của anh ấy. Chú tôi đang ngồi dạy ở bàn thầy giáo, thấy tôi vừa khóc vừa lấy thước đi về lớp, chú bảo tôi :

 

-          Nín đi! Đi học mà khóc cái ǵ !

 

Tôi nhớ mỗi lớp có hai dăi bàn, có 2 tấm bản đen, mỗi bản đặt nằm trên một cái giá, bàn thầy giáo dựa tường nằm giữa hai tấm bản, tôi ngồi bàn đầu, phía tay phải của tôi là anh học tṛ tên Độ, nhà anh ở phía tay trái của trường, cách miếng đất trống, bên tay trái của tôi là Trai và kế bên Trai là Lê Văn Khải con của thầy. Hồi nhỏ chúng tôi thường gọi là tṛ Độ, tṛ Trai, tṛ Khải.

 

Một hôm thầy kêu Trai đọc bài, Trai đứng lên để nh́n bản đọc, Khải và tôi mỗi người một bên nắm quần xà lỏn của Trai, Trai chẳng để ư, đứng lên, quần bị tuột xuống, Trai phải ngồi xuống. Thầy tưởng Trai không vâng lệnh, Thầy gọi lên đánh Trai hết mấy khẻ tay, tội nghiệp Trai bị khẻ tay mà chẳng than phiền chúng tôi, lần khác Thầy gọi, Trai chẳng dám đứng lên, Thầy định khẻ tay nữa, có vài anh học tṛ lớn bất măn liền mét với Thầy nguyên do v́ chúng tôi nắm chiếc quần xà lỏn Trai không dám đứng lên.

 

Biết rơ lư do, thầy gọi Khải và tôi lên bàn, thầy lấy cây thước bản ( cây thước dài chừng 2 thước, thầy giáo dùng để chỉ lên bảng giảng bài), bắt chúng tôi chúm năm ngón tay lại, thầy đánh hai chúng tôi mỗi đứa 3 cái, đau ôi là đau thấu xương từ đó chúng tôi không dám nắm quần đùi tṛ Trai nữa.

 

Trong sân trường về phía nhà tṛ Độ có cái đu, chúng tôi tha hồ đánh đu, học tṛ gái chơi chuyền chuyền hay nhảy đây, hoặc họ chơi c̣ c̣, sân trường phía nhà tṛ Trai có một cây, mùa Hè hoa nở đỏ, mọi người đều gọi là Điệp Tây, có lẽ hồi xưa trong Nam không có thứ cây nầy, Pháp đến rồi họ trồng gọi là Điệp Tây, cũng như giữa sân đ́nh làng tôi có trồng cây Chuối Tây. Sau nầy tôi mới nghe Điệp Tây là Phượng Vỹ. Ở cạnh đó có cây dừa cao bị sét đánh cháy phân nữa những tàu lá. Trai kể cho chúng tôi nghe, ban đêm ở đó có con quỷ mẹ vào những đêm mưa lâm râm hay trời không trăng, tối thui, con quỷ mẹ ru con ngủ, tiếng ru lảnh lót, tiếng vơng đưa cọt kẹt, nên một hôm trời mưa, Thiên lôi đến cắm cờ trên đọt cây dừa, rồi ông Trời đánh một cái rầm, cây dừa bị cháy lá, cây Điệp Tây bị gảy nhánh, Trai c̣n dặn chúng tôi, khi nào trời mưa coi chừng bị Trời đánh, đi dưới mưa thỉnh thoảng nên rờ lên đầu coi có bị Thiên Lôi cắm cờ không, nếu bị th́ rút cờ ném xuống đất mà chạy, c̣n ở trong nhà th́ dọn cơm ra mà ăn, ai ăn cơm ông Trời không bao giờ đánh, v́ ‘’ Trời đánh c̣n tránh bửa ăn ‘’. Chúng tôi ai cũng say sưa nghe Trai kể chuyện Trời đánh, vừa sợ ma vừa sợ trời đánh và cũng phục Trai biết nhiều.

 

Có một lần tṛ Hàn, ngồi ở cuối lớp thầy gọi tập đọc, đánh vần chữ TÔI, tṛ Hàn cứ đánh vần T, Ô, TÔ, I, TUI, thầy dạy:  ‘‘ Mầy phải đánh vần T, Ô, I, TÔI ‘’, tṛ Hàn : ‘’ Dạ ‘’, rồi cũng cứ T, Ô, TÔ, I, TUI, thầy đánh mấy lần, tṛ ấy cũng cứ TUI chớ không làm sao đọc TÔI, thầy bỏ qua, gọi tṛ khác.

 

Thầy dạy học, hết giờ thầy kéo kẹo, đến ra chơi thím bán kẹo kéo cho chúng tôi ăn, một lần giờ ra chơi, tôi ở ngoài sân chú tôi đến bên móc ví, lấy cho tôi một cắc, tôi nhớ tờ giấy Hào hay mười xu ấy là một tờ giấy nho nhỏ, in màu vàng, c̣n tờ giấy hai Hào lớn hơn một chút, in màu nâu, được tiền chú cho, tôi chạy mua kẹo kéo ăn, kẹo xốp ḍn, bên ngoài c̣n dính lớp bột trắng, nhờ đó những cây kẹo để chung không dính với nhau. Kẹo ấy làm là dùng đường nấu (gọi là thắng) cho đặc lại, rồi dùng đủa kéo nó ra, nhập nó lại rồi kéo nó ra, cứ kéo ra, kéo vô cho đến khi thành kẹo, nên gọi là kẹo kéo.

 

Hồi đó trai gái học chung, con gái cha mẹ cho đi học rất ít, lớp trên tôi có chị Phấn, lớp tôi có cô Phe và những tṛ gái khác tất cả đều để tóc dài, kẹp lại phía sau lưng.

 

Sau đó Việt Minh cướp chánh quyền, Thanh Niên tiền phong tập họp thành hàng ngủ, họ vác tầm vông vạt nhọn, tập đi tới, đi lui với hàng ngang, hàng dọc, rồi họ tập vỏ, rồi chú tôi và Thầy Thọ bỏ Trường về tỉnh, trường gần nhà tôi thầy giáo cũng bỏ đi, cả hai trường đều đóng cửa, học tṛ nhỏ tuổi được ở nhà chơi, lớn tuổi hơn lo công việc đồng áng, ban đêm thanh niên ở làng tôi chèo ghe qua bên kia sông đào đường, chặt cây cản lộ, ban ngày dân bên kia sông bị bắt đi lấp đường, phá cản cho xe nhà binh, xe đ̣ chạy. Thỉnh thoảng Tây Trắng, Tây đen đi bố ráp, tuy nhỏ tôi cũng phải chạy theo mẹ theo anh. Có một hôm tôi thấy một chiếc tàu lớn lắm, lấy lá dừa che phủ ở trên, ghé vào trường tôi ở mấy hôm, những người ở trên tàu thấp lùn, cha tôi bảo đó là lính Nhật.

 

Nhớ lại năm ấy là năm Ất Dậu 1945, tôi sanh năm 1941, như vậy tôi đi học sớm lắm, mới có 4 tuổi, người ta chưa tới tuổi cập vở đến trường th́ tôi đă bị thất học rồi.

 

Sau khi chú tôi về Tỉnh một thời gian, cha tôi được thư của chú, bảo anh tôi và con của người chú khác, bơi xuồng sang sông chở tủ sách của chú, đem về để ở nhà tôi, một hay hai năm sau chú tôi mới về mở tủ lấy sách mang đi, cha tôi mượn lại bộ sách đạo Niết Bàn Tạp Chí, cô tôi không chồng ở chung nhà, mượn giữ lại bộ Tiểu Thuyết Thứ Bảy và chú tôi để lại mấy quyển sách Luân Lư, Cách Trí, Quốc Văn Giáo Khoa Thư các lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Cao Đẳng, cho anh em tôi học.

 

Cha tôi làm Hương Sư, các thầy giáo bỏ trường B́nh Thủy ra đi, giao ch́a khóa trường lại cho cha tôi, có dạo anh Hai tôi đi Tân Châu học dệt vải, vải dệt từ bông vải gọi là vải ta, sợi chỉ to nên vải dầy, trông thô, c̣n dệt từ sợi tơ của tầm, sợi tơ rất nhỏ, vải mịn và chắc gọi là lụa, quận Tân Châu ở Châu Đốc nổi tiếng là Lụa Mỹ A cũng gọi là Lănh Mỹ A, có lẽ v́ lụa ấy mặc vào nó mát lạnh nên gọi là Lănh, quần Lănh Mỹ A mới may, mặc đi nghe sột sạt, chỉ có một màu đen, nhuộm với trái Mạt Nưa, chỉ dùng may quần cho phụ nữ và giá rất đắc tiền.

 

Rồi một thời gian sau vải nhập cảng, anh tôi không công ăn việc làm, lấy ch́a khóa cùng với anh Hoài mở cửa trường, lấy lớp dạy tư, tôi không có đi học, dạy vài tháng anh tôi bỏ đi Sàig̣n làm cho nhà thuốc Nhành Mai, ở bên hông chợ Sàig̣n số 36 Saboraine sau đổi là Tạ Thu Thâu, chuyên bán thuốc dán Con Rắn và thuốc Dưỡng Thai. C̣n thầy Hoài sau làm chủ nhà thuốc B́nh Sanh, chạy ghe máy bán khắp nơi trong vùng Long Xuyên, như Sơn Đông Măi Vơ. Năm 1969, đi lính về phép gặp được anh trong quán nhậu tại thị xă Long Xuyên, cụng với anh một ly tràn đầy bọt bia.

 

Rồi lúc nào đó chú Nguyễn Hoa Hẩu lấy trường mở lớp dạy tư, chú là con của thầy giáo Nguyễn Văn Đe, tôi nghe nói ông Bảy Đe hồi đó dạy tại Long Xuyên, chú tôi theo học với ông, sau ông đổi đi dạy trường tỉnh Sa Đéc. Chú Hai Hẩu cũng như anh Hai tôi có đi học  lớp nhứt trường tỉnh, nhưng cả hai không đậu được bằng Primaire. Cha tôi cho tôi đi học với chú Hai, lớp học nầy chỉ có một dăi bàn, mỗi bàn rất dài, đóng ván sao dầy gần 2 phân nên rất chắc và nặng khỏi chê. Lớp học chỉ có một cửa và một lối vào ra, một bên là tường một bên là dăi bàn học, hai cửa sổ, hai tấm bản và cái bàn thầy giáo, trên tường có treo tranh vẽ khá lớn cảnh bến tàu và chợ Sàig̣n, những hôm trời mưa lớp tối tù mù v́ không có đèn đóm chi cả.

 

Trường có một cái trống, chú Hai không treo lên, để nó ở gần bàn chú ngồi và chỉ ḿnh chú đánh trống vào lớp, trống ra chơi, trống tan trường, chú đánh bằng cái dùi to chừng bắp tay, có nhiều hôm giận quá khi dạy học tṛ không hiểu, không thuộc bài, chú sẳn tay quơ cái dùi trống đánh luôn lọc tṛ vào lưng nghe th́nh thịch gần giống như chú đánh trống tan trường.

 

Một hôm chú dùng cây thước kẻ đánh luôn vào mặt tṛ Đơn, cây thước ấy là cây thước vuông bằng gỏ, bốn cạnh của nó được người thợ mộc khéo tay xẻ bốn đường, khảm vào đó 4 miếng thau, là cây thước cưng của học tṛ nhà giàu, cạnh thước đó chú đánh vào xương g̣ má tṛ Đơn tét một đường chảy máu, giờ ra chơi tôi phải đưa tṛ Đơn về nhà, lấy muối bọt chấm miếng nước xát vào chỗ vết thương, tṛ Đơn tội nghiệp lo sợ than thở với tôi :

 

- Tao bị vầy, về nhà cha tao thấy, chắc ổng đánh tao nữa.

 

Đến năm 1950, chú Hai Hẩu, tôi thường gọi là Chú Hai chớ không gọi thầy, tổ chức cho học tṛ xuống Long Xuyên thi, một số đóng góp tiền thuê một chiếc ghe, xuống đậu ở bến sông gần trường Nam Tiểu Học Long Xuyên để dự thi, gia đ́nh tôi có người quen làm Police ở dăi phố gần Rạp hát Thanh Liêm, tôi và người em con ông chú ở đó, ngày đi thi tôi ngồi ở pḥng học cột tràm, lợp lá vách cũng không che được kín, dăi ấy sát với hàng rào dây kẻm gai, phía sau là ao, hồ, có nhà vệ sinh cất trên ao cá, học sinh muốn đi c̣n phải đi qua chiếc cầu khỉ bằng tre, sau nầy chỗ ấy lấp đi để xây Trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu.

 

Sau một ngày thi, tôi vẫn về ở nhà quen, đến hôm kêu Résulta, lúc ấy chừng 10 giờ sáng, tôi không rơ có bao nhiêu thí sinh thi, nhưng đi nghe lèo tèo chừng vài chục lố nhố đứng chờ ở giữa sân cờ, một ông thầy giáo ra đứng trên cái ghế giữa sân trường, bắt sĩ tử phải xếp hàng, xong ông ta mới lấy cái loa làm bằng kẻm, sơn trắng đọc danh sách những người đậu, gồm có số báo danh, họ tên và nơi sanh.

 

Tôi nghe đọc tên Huỳnh Hữu Tâm đậu, Tâm đứng gần đó cũng nghe như thế, c̣n tôi không có tên, biết ḿnh đă thi rớt, tôi ra bến xe đi về nhà.

 

Xuống xe, tôi lo sợ về nhà sẽ bị cha tôi đánh đ̣n v́ thi rớt, chị tôi bơi xuồng qua đón, chị hỏi :

 

- Đi mấy ngày nay thi đậu hay rớt ?

 

Tôi buồn bả đáp :

 

 - Rớt rồi chị Ba.

 

 Chị tôi mĩm cười nói thêm:

 

- Vậy là từ nay thay họ đổi tên thành Bùi Kiệm rồi!

 

Nghe chị nói tôi c̣n buồn hơn, xuồng chị tôi chưa cập bến, có một anh hàng xóm tên là Vương Triều Hón, năm ấy anh ta cũng gần năm mươi, thấy tôi anh ta hỏi :

 

 - Sao chú mầy đậu rớt ?

 

Tôi buồn bả trả lời :

 

- Rớt rồi anh Năm!

 

Anh Vương Triều Hón này, mẹ anh cũng như cha tôi, con cháu họ Dương, có họ hàng anh ta đă trộng tuổi, lại để râu thành ra trông già, về vai vế tôi gọi anh ta bằng anh. Anh ta cười ruồi nói với tôi :

 

- Cậu Ba có một bầy dê, mầy sẽ làm ông Tô Vơ, chăn dê đến khi nào dê đực đẻ th́ mới thôi đó nghe mậy!

 

Tôi đă sợ bị đ̣n, anh ta nói đùa, tôi không mấy vui, từ chỗ xuồng cập bến về tới nhà chừng 200 thước, anh Năm Hón nói xong đi về nhà của ảnh, tôi đi về nhà tôi, hai hướng khác nhau, c̣n lại một ḿnh, tôi tư tưởng, cha tôi trước kia ăn chay trường được 10 năm rồi bị lao phổi, đi bệnh viện Long Xuyên được Bác Sĩ Bàng trị hết, khuyên dứt cha tôi ăn mặn, và có người khuyên nuôi dê, lấy sữa dê uống cho bổ, v́ vậy cha tôi nuôi một bầy dê Bắc Thảo, giống to con, màu tím lốm đốm trắng, sữa nhiều. Nếu thi đậu, tôi có thể xuống tỉnh học lớp Nh́, c̣n nay thi rớt, nhà cha mẹ tôi lại không dư ăn dư để, anh kế tôi đang học ở Long Xuyên, nên tôi phải ở nhà chăn bầy dê là cái chắc, dê thứ chi cũng ăn, phải chăn giữ để chúng đừng ăn của người ta, lại c̣n phải trông nom bảo vệ chúng để khỏi bị chó cắn.

 

Về tích Tô Vũ, tôi đă nghe người ta nói, ngày xưa ông ta làm quan, vua Hán phái đi sứ sang Hung Nô, vua Hung Nô không coi sứ ra chi, bắt đày ông Tô Vũ đi chăn dê, dạy rằng khi nào dê đực đẻ th́ tha cho về Hán. Khi bị đày chăn dê, ông Tô Vũ vẫn coi ḿnh là sứ giả, về sau vua Hán cho quân đánh Hung Nô, t́m ra Tô Vũ râu tóc bạc phơ, tay vẫn cầm cờ sứ rách nát te tua.

 

Bước vào nhà, cha tôi đang vẽ tranh, không nh́n tôi, ông hỏi :

 

-     Thi đậu rớt mậy ? 

 

Tôi trả lời ngay :

 

-          Dạ rớt rồi cha!

 

-          Vậy th́ mầy cũng nếm được mùi thi cử!

 

Cha tôi không nói thêm nữa, tôi mừng v́ khỏi bị đ̣n, anh em tôi sợ những trận đ̣n của cha, đánh mà không cho khóc, không cho ai can, má hay cô tôi can th́ chúng tôi c̣n bị đ̣n nhiều hơn.

 

Khi tôi xuống tỉnh dự thi, tôi ở nhà anh Police quen, c̣n anh tôi ở trọ dưới Cái Sơn, lúc thi rớt ra về tôi cũng không nói cho anh tôi hay. Vài hôm sau đến Chủ Nhật, anh tôi về, gặp tôi ngoài sân, anh cười nói với tôi :

 

- Thi đậu rồi sướng quá hé!

 

Tôi năn nỉ anh tôi :

 

 - Thôi mà! Thi rớt rồi anh c̣n mỉa mai nữa chi vậy ?

 

 - Không mầy thi đậu rồi mà!

 

- Thôi đi anh ơi, tôi đứng gần ông thầy cầm cái loa, ổng đọc tên thằng Tâm con chú Chín, chớ đâu có tên tôi!

 

Anh tôi căi lại :

 

- Sao kỳ vậy ? Thằng Tâm rớt mầy đậu mà!

 

Cha tôi trong nhà nghe hai anh em cải lẩy thi đậu rớt, liền gọi anh tôi vào hỏi cho rơ, anh tôi nói là xem bảng thấy rơ tên tôi, c̣n Tâm con chú tôi bị gạch đỏ cũng như những đứa thi rớt khác. Cha tôi nói :

 

- Vậy mà mấy bửa nay nó nói nó rớt.

 

Tôi thấy khi rớt, cha tôi chẳng buồn và rầy rà, khi thi đậu cha tôi chẳng những không vui mà lại c̣n có nét suy tư và buồn bả, sau nầy tôi mới biết, đáng lẽ thi đậu gia đ́nh phải cho tôi xuống Long xuyên học tiếp, nhưng cha mẹ tôi không có tiền, tôi phải thất học, cũng là con, hai anh tôi đều được xuống tỉnh học, c̣n tôi th́ không được như vậy, cha mẹ nào lại không buồn, mẹ tôi vốn ít nói, nên cũng chẳng nói chi về việc thi cử của tôi. Có người đưa ư kiến, cho tôi lên Châu Đốc ở nhà chú tôi đi học. Cha tôi nói :

 

-  Chú nó tốt, nhưng c̣n thím.

 

Vài năm sau, anh tôi lănh bằng đem về cho tôi đó là Văn Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, có chữ kư của Thanh Tra Hàng Tỉnh Long Xuyên Trương Văn Đức và Giám Đốc Sở Học Chánh Nam Việt Trần Bá Chức, đấy là mảnh bằng đầu đời, ngày nay tôi vẫn c̣n giữ được.

 

Rồi năm sau, năm 1951, chú Hai Hẩu xin làm thầy giáo, chú xin thêm thầy về dạy đó là thầy Giáo Chín, quê ông ở Chợ Mới, thầy đến cùng gia đ́nh ở một chiếc ghe nho nhỏ, con thầy có anh Quan, anh Quân, chị Liệt, chị Tuyết và con gái út tên So, da trắng, môi son, tóc hớt ngắn như con trai, cô ta đẹp và dễ thương.

Tôi th́, nhà chưa có đủ tiền đi học ở dưới tỉnh, cha tôi xin chú Hai cho tôi học buổi sáng, buổi chiều ở nhà chăn dê. Nhà tôi gần trường, cha tôi từng làm Hương Quản rồi Hương Sư nên mỗi ngày, lúc giờ chơi chú Hai và thầy giáo Chín thường đến nhà tôi uống trà, bàn chuyện Đông Tây, kim cổ.

 

Một hôm, cha tôi đưa quyển Tam Thiên Tự, sách đóng b́a cứng, bảo tôi đem theo, lúc rănh lấy ra đọc và viết xuống đất cho nhớ , tôi đă học Thiên : Trời, Địa : Đất, Cử : Cất, Tồn : C̣n, Tử: Con, Tôn : Cháu, Lục: Sáu, Tam : Ba, Gia: Nhà, Quốc: Nước, Tiền: Trước, Hậu: Sau, Ngưu : Trâu, Mă : Ngựa cho đến bây giờ tôi chỉ c̣n nhớ bấy nhiêu đó.

 

Tôi đi chăn dê trong cánh đồng, thường đi một ḿnh nên lấy Tiểu Thuyết Thứ Bảy theo đọc, những chuyện Cô Giáo Minh của Nguyễn Công Hoan, Ḥm Đựng Người của Nguyễn Triệu Luật, Bóng Cờ Trắng Trong Sương Mù của Ngọc Giao (?), tôi không nhớ có thơ TTKH hay không, v́ ngày đó tôi không đọc thơ., tôi đă đọc hầu hết những chuyện ngắn trong những quyển tiểu thuyết của chú tôi. Thời gian đó tôi c̣n đọc Tế Điên Ḥa Thượng, Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự, Thằng Bờm, Thần Hổ của TCHYA (Đái Đức Tuấn), cho nên tôi bị nhiễm tiểu thuyết.

 

Đă vài năm mà không có tiền cho tôi xuống tỉnh học, cha tôi cho tôi ở nhà luôn, tôi không nhớ duyên cớ ǵ tôi lấy giấy học tṛ, viết mực tím gửi cho cô So, đó là thơ t́nh, thứ t́nh như con nít chơi nhà cḥi, làm đám cưới, đi đám giỗ ... thư tôi nhờ chú út Thửng, nhà chú giữa trường học và nhà tôi, trường học nay thầy giáo Chín đưa gia đ́nh về ở pḥng bên cạnh lớp. Chú Thửng hơn tôi chừng 2 tuổi, chú không được thông minh, tôi nghĩ chú không đọc thư tôi mới nhờ. Hôm sau, chú Thửng đưa lại cho tôi thư cô So, nay tôi không c̣n nhớ hết cô đà viết chi trên tờ giấy học tṛ, mực tím, tôi chỉ nhớ lấy có một hàng quan trọng: ‘‘...Em cũng thương anh, anh thương em th́ để bụng, giấu kín đừng nói cho ai biết hết nghe...’’ Tôi dấu kỷ lá thư ấy, dấu kỷ đến nổi tôi không nhớ nó ở đâu và tôi làm y như lời cô So dặn, tôi không nói với ai hết, ngay với cô tôi cũng chẳng nói thêm tiếng nào.

 

Sau nầy lên Sàig̣n học, cuối năm đầu tiên ấy, Tâm và tôi đi đến quê cô, tận bến đ̣ Bà Vệ ở Kiến An, Chợ Mới, ngủ lại đó đêm mồng một tết, tôi cũng chẳng nói được với cô ta lời nào. Sao nầy nghe nói cô làm cô giáo, lập gia đ́nh với một thầy giáo. Năm 1986, hơn 30 năm sau, có dịp đi huyện Chợ Mới, tôi lại ghé thăm thầy Chín, thím chỉ lên bàn thờ, bảo thầy chết vừa mới măn tang. Thầy không dạy tôi, tưởng t́nh bạn vong niên với cha tôi, tôi thắp hương lạy thầy.

 

Rồi cô giáo So cùng với con ở đâu gần đó về nhà thăm mẹ, thấy tôi khách, cô cuối đầu chào, tôi cũng cuối đầu chào lại. Cô nói thêm với thím giáo vài câu rồi đi ra. Tôi ngồi nán lại một chốc rồi xin phép ra về, từ nhà ấy ra ngơ, tôi thấy cô giáo So đứng ở cửa hông nhà bên cạnh, có nh́n thấy tôi, chẳng ai nói tiếng nào, thật tôi đă làm đúng lời cô dặn năm xưa:‘’ Thương em th́ để bụng ‘’.

 

Năm 1954, cha tôi qua đời, anh tôi ở Pháp viết thừ về, nhờ chú giúp dùm tôi đi học, do đó tôi lên Châu Đốc vào học Trường Nam Tiểu Học, lớp nh́ với thầy Lê Quang Điện, lớp Nh́ H của chúng tôi ở dăi lớp lợp lá, vách lá, nền đất, phía tay phải cuối đằng xa là Trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa, có lớp Nhứt gần đó, thầy Châu Văn Tính dạy, con gái thầy thi rớt vào Đệ Thất, nên thầy cho cô Dung học chung với con trai của lớp thầy, như thế năm ấy trường có một bóng hồng. Thầy Châu Văn Tính có một người con trai sau hy sinh v́ tổ quốc, người ta lấy tên anh đặt cho tên trại Lực Lượng Đặc Biệt trên đường Trần Quốc Toản, gần Trường đua ngựa đó là Trại Châu Minh Kiến. Thầy dạy vở ḷng của tôi, thầy Lê Văn Thọ cũng dạy lớp nh́ F trường đó.

 

Từ đó tôi xa ngôi trường học vở ḷng, xa ngôi trường làng, những lần về quê, khi đi ngang ngôi trường thuở ấu thơ, tôi nhớ tới nhiều người bạn học, Ngát cháu ngoại của cô tôi đă ra người thiên cổ được mấy năm rồi, cô Dậu, xẩm rất xinh, con chú chệt Soạn, chú chạy xe đạp rao bán thịt heo trong làng, chú ở gần nhà Cô tôi, xa trường nên cùng với cháu Ngát, trưa về nhà tôi ăn cơm rồi leo lên vơng ngủ một giấc, thức dậy lại đi học buổi chiều. Nhớ lại hồi đó chú thím Tư Soạn có con gái lớn là Chị Muối đă đến tuổi lấy chồng, mấy người hàng xóm chỗ tôi hay đùa chú với giọng Chệt nói tiếng Việt : ‘’ Con bà cũng lứn dồi, gă cho thàng ló th́ cũng xừng ‘’ (Con bà cũng lớn rồi, gă cho thằng đó th́ cũng xứng), hay ‘’ Cái đồn đó đông thật là đông ‘’, chú Tư nghe người ta nhái giọng th́ cười chớ không giận, người ta hỏi sao chú không giận hờn chi hết, chú trả lời : ‘‘ - Há ngộ dận làm chi ? Lể ngộ bán thịt kiếm tiền mua gạo mà!  Bở nào ló mua, bớt ló một miếng thịt hà !’’. Chú thím Tư Soạn đă chết từ lâu, cô Dậu đă lấy chồng, đă nhiều năm không gặp lại cô ấy, chắc cháu nội ngoại nay cũng đă nhiều.

 

Những khi có ca sĩ hát : ‘’ Trường làng tôi, cây xanh lá vây quanh. Muôn chim hót vang lên trên cành ..., luôn luôn làm cho tôi nhớ tới ngôi trường tôi đă học vở ḷng hơn là ngôi trường làng gần nhà.

 

Qua bài hát nầy, tôi nghĩ những ngôi trường xưa, giữ biết bao nhiêu t́nh cảm của thuở học tṛ, thật là đậm đà trinh trắng của tuổi thơ.

 

Tôi vào học, mấy ngày đầu bài toán nhân, chia tôi làm sai bét, tôi quên hết cửu chương, chú tôi bắt học cửu chương đọc xuôi, đọc ngược, rồi hỏi đâu trả lời đó, tháng đầu tôi đứng gần hạng bét, nhưng từ tháng thứ hai trở đi tôi đă tiến bộ nhiều, vài tháng sau vị thứ tôi ở vào nhứt, nh́, ba, tư mà thôi.

 

Một hôm, sáng sớm tôi sắp sửa đi học th́ có tin báo cho biết mẹ tôi đau nặng, bảo phải về gấp, chú tôi cho phép nghỉ học về thăm mẹ, hôm ấy đi xe đ̣ về Năng gù rồi cùng anh rễ tôi đi Long Xuyên từ Long Xuyên đi xe đạp vào Vĩnh Chánh, đến nơi trời đă về chiều, gia đ́nh đă đưa mẹ tôi đến ngôi chùa làng, nơi ngày xưa mẹ tôi đă quy y, chị tôi bảo :

 

- Má chờ em đó, lại nằm với má đi!

 

Tôi đến nằm bên cạnh má tôi, nơi bộ ván ngựa trải manh đệm kê ở hậu liêu của chùa, nh́n sang má tôi, người đă mê man rồi. Chị tôi lay gọi :

 

- Má ơi má!  Thằng Tông nó về nằm bên cạnh má đó!

 

Tôi chỉ nghe má tôi thốt giọng ư ư yếu ớt, cũng không mở mắt nh́n ai nữa, đêm ấy mẹ tôi từ trần, người nhà nh́n đồng hồ treo trên cột bảo là 10 giờ. Tôi đă mất thêm mẹ, trở nên mồ côi từ năm 13 tuổi.

 

Trường Nam Tiểu Học, hồi đó có ba dăi xây tường lợp ngói, chỉ riêng có dăi tôi học là lợp lá, nằm sát hàng rào, bên kia thuộc khu đồn trú của quân đội, nhưng cách xa nên lau sậy mọc tràn lan, quanh năm không có bóng người. Sân trường trồng những cây bả đậu, cây điệp loại cây to hoa tím nhỏ, ở chính giữa bốn dăi lớp là cột cờ, mỗi ngày vào buổi sáng, học sinh đều phải xếp hàng chào quốc kỳ, hát quốc ca rồi mới đi vào lớp, mỗi lần đến phiên trực, lớp tôi có Thu đứng ra bắt nhịp cho học sinh cả trường hát quốc ca, về sau Thầy Điện tập cho tôi bắt nhịp ở trong lớp vài lần, rồi bắt tôi ra bắt nhịp cho học sinh hát, từ đó trở đi Thu và tôi thay phiên nhau bắt giọng và đánh nhịp : ‘’Nầy Công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng! Hai! Ba Tất cả học sinh theo đó đồng ca : Nầy Công dân ơi ! Quốc gia đến ngày giải phóng....

 

Trong lớp, thỉnh thoảng Thầy dạy cho cả lớp cùng hát những bài hát ngắn, nay tôi chỉ c̣n nhớ bài Lên Đường ‘’ Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường, kiếm nguồn tươi sáng, ta nguyền đồng ḷng điểm tô non sông tự nay ra sức anh tài, đoàn ta chen vai nề chi chông gai lên đường...’’

 

Và có một lần mỗi học sinh phải làm một món thủ công, thầy chấm điểm sau đó tất cả những thủ công có điểm cao của tất cả các lớp, đem tới Pḥng Thông Tin để triển lăm, tôi được triểm lăm thủ công con trâu nắn đất sét.

Ngày nay lớp nầy tôi chỉ c̣n nhớ có Tỏ ở đâu B́nh Di Bắc Nam chi đó, gần biên giới Miên xuống học, có Lê Quang Nản con của Thầy Điện.

 

Trường ở tại tỉnh lỵ, nhưng có những học sinh từ Núi Sam, từ Mỹ Đức, từ Cồn Tiên bên kia sông phía trước chợ Châu Đốc đến học, phía Cồn Tiên là làng Khánh Hậu h́nh như quê của nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết ở đó, c̣n ở chỗ bến Bắc đi sang bên kia là Châu Giang, nơi đó là làng Chăm, không có người sang học ở Châu Đốc, làng Chăm đó tôi không hiểu sao họ lưu lạc đến  đó và lập nghiệp từ bao giờ. Hồi nhỏ, có mấy người làm nghề đánh cá, vào khoảng tháng Ba tháng Tư họ hay đi chài vùng sông chỗ tôi, chiều họ về đậu bến sông và hay lên nhà tôi chơi, tôi c̣n nhớ có anh Ali và Ama cũng c̣n nhỏ tuổi, anh tôi xin anh Ali dạy gồng, anh ta dạy anh tôi ngồi và luyện chi đó, tôi nghe anh tôi tập thở ph́ pḥ, chỉ có vậy mà thôi.

 

Sau họ không chài cá nữa, nhưng mỗi năm có người đàn bà Chăm tôi gọi là Bác Tư, cứ mấy ngày tết là xuống thăm cha mẹ tôi, Bác ấy ở đó chơi vài hôm mới về, khách tới thăm chơi trong nhà phải cơm nước, khi Bác Tư về mẹ tôi cho bánh tét, bánh phồng, trà mứt và gạo nữa, cho đến năm nào đó, cha tôi nói chi tôi không rơ, bác khóc với mẹ tôi và nói sẽ không xuống nữa, từ đó tôi không thấy Bác Tư Chà trở lại. Có khi tôi muốn t́m thăm Bác Tư Chà và anh Ama hay Ali nhưng tôi không biết nhà bác chỗ nào bên làng Châu Giang. 

 

Sang năm sau tôi lên lớp Nhứt E, học với Thầy Châu Văn Tính, cuối năm có chụp h́nh nên tôi c̣n nhớ nhiều bạn học cùng lớp như Huỳnh Bảo Toàn con chú tôi, Lê Văn Khá con thầy Thọ, Tiên, em của Tỉnh Trưởng, Châu Minh Quyền con của Thầy Tính, Hồ Văn Tri và em ruột Hồ Văn Phú cùng học chung lớp nhà ở Mỹ Đức, Đổng con chủ ḷ bún ở Đường Rầy Xe Lửa, Dễ, Bé  ở khu Thánh Thất Cao Đài. Có một anh chàng em của người tài xế xe Công Tạo chạy đường Châu Đốc Sàig̣n, sau anh ta là nhạc sĩ gặp tôi vài lần khi thang thang trên hè phố Sàig̣n, anh chàng Nu cao lêu nghêu nghe nói sau nầy làm ở Hội Việt Mỹ, và c̣n nhiều người nữa tôi không thể nhớ hết v́ ít khi gặp lại.

Học lớp Nhất E nầy, thầy Tính khuyến khích học sinh làm toán cho nhanh, mỗi ngày đều có toán đố, 10 học sinh lên trước được thầy chấm, những học sinh c̣n lại sẽ không được  điểm, cho nên học sinh phải làm nhanh và chạy cho lẹ, có hôm tôi đă vô ư nguyên b́nh mực tím đổ khắp quần áo bộ bà ba trắng tôi mặc đi học, cũng v́ muốn đi nhanh đem vở lên cho thầy.

 

Tôi hảnh diện v́ được Thầy giao cho chép bảng những bài Cách Trí, Địa Lư, Sử Kư cho những học sinh khác chép theo v́ chữ tôi đẹp, thường những bài luận của tôi Thầy cho tới 8 điểm, thầy sửa vài chỗ rồi lấy làm bài mẫu cho học sinh, tôi c̣n hảnh diện với các học sinh cùng lớp v́ cuối tuần thầy giao cho tôi mang sổ về nhà cộng điểm, xếp hạng. Nhớ lại thuở nhỏ đó là vinh dự lớn của người học tṛ, được thầy tín cẩn mới cho làm việc ấy.

 

V́ tôi đi học lại đă quá tuổi thi vào Trung Học, nên bác tôi phải làm Thế V́ Khai Sinh cho tôi, tôi sinh năm 1941, nay phải sửa lại 1943 để c̣n đủ tuổi thi vào Đệ Thất. Thế V́ Khai Sanh ấy giả nhưng mà nó là thật v́ phải Ṭa Ḥa Giải Rộng Quyền ở Cần Thơ kư vào sổ bộ, nó thật nhưng mà giả v́ ngày sinh tháng đẻ của tôi nào phải vậy. Chiến tranh v́ học hành, thi cử v́ trốn lính nhiều người phải làm giấy tờ giả vài tuổi cho đến 10 tuổi. Rồi sau nầy không c̣n chiến tranh, nhưng để thoát khỏi chế độ Cộng sản người ta phải làm giấy tờ giả, anh chị giả làm cha mẹ, em út thành ra con cái, tuổi trẻ hóa già, tuổi lớn hóa nhỏ...

 

Ở Châu Đốc, có những hôm muốn đi núi chơi, chúng tôi học sinh rủ nhau vài người, ra chợ mua vài ổ bánh ḿ, vài hộp cá ṃi mang theo ăn, hoặc mua một nải chuối già với một hai cân khoai ḿ mang theo ăn. Ngày đó, chúng tôi đă được dạy hát bài Suy tôn Thủ Tướng Ngô Đ́nh Điệm: ‘’Ai bao năm từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do ... Ngô Thủ Tướng! Ngô Thủ Tướng muôn năm! Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Thủ Tướng. Thời đó học tṛ chúng tôi sửa lại : Khoai ḿ chuối! Khoai ḿ chuối muôn năm! Toàn dân Việt Nam nhớ ơn khoai ḿ chuối ‘’. Sáng sớm đi, chừng một giờ đồng hồ vào tới chân núi Sam, ngày xưa hai bên lộ không có nhà cửa, nh́n hai bên đồng mông hiu quạnh, nh́n chẳng xa chi lắm là kinh Vĩnh Tế do ông Thoại Ngọc Hầu trong nom dân phu đào cập theo ranh giới Việt Miên, từ Châu Đốc sang tới Hà Tiên

 

Khi vào tới chân núi là gặp ngay chùa Tây An, nơi đó có ngôi mộ của Đức Phật Thầy, rẽ tay phải sẽ đến miễu bà Chúa Xứ, nằm bên tay phải, xế đó bên tay trái là lăng của Thoại Ngọc Hầu, nơi đây trong khuôn viên lăng có mộ của mười mấy người, ấy là những đào kép hát, h́nh như họ bị bức tử chôn theo Thoại Ngọc Hầu. Nếu đi nữa sẽ tới Bạch Vân Tịnh Xá, nơi đây có tượng Phật ngồi tham thiền, từ đây có đường leo lên đỉnh núi, nếu đi nữa sẽ tới chùa hang cũng có đường lên núi. Nhưng nếu từ Châu Đốc vào rẽ trái một khoảng sẽ có đường đi lên đỉnh núi, ngày xưa Pháp làm cho xe hơi chạy lên tận đỉnh, đường cho xe quan chạy nên có tên là Đường Quan, cũng như trước dinh tỉnh trưởng, có chiếc cầu sắt bắc ra sông cho tàu của quan đậu, gọi là Cầu Quan, trên đỉnh có một ngôi nhà xây người ta gọi là pháo đài, dùng để canh gác, lúc tôi đến đó, tôi nghĩ có lẽ là nhà nghỉ mát, trên đỉnh cao, gió thổi lồng lộng. Lên đến đây bày thức ăn ra ăn, rồi ngă lưng nằm, ngủ một giấc thoải mái, đến gần chiều từ từ theo đường quan xuống núi, đường tuy xa nhưng dễ đi và không nguy hiểm, v́ không phải leo trèo qua những vồ đá cheo leo.

 

Ở Chợ Châu Đốc, có một món ăn rất nổi tiếng gọi là Bún Nước Lèo, ăn mới biết hương vị, h́nh như đó là món ăn của người Chăm hay người Miên chớ không phải của người Việt. C̣n người Việt th́ có đặc sản Mắm Thái, mắm thái là mắm con cá lóc, sau khi làm mắm, người ta xắt thịt con mắm cá lóc thành từng sợi nhỏ bằng đầu đủa ăn, rồi trộn với đu đủ, gừng, ớt, tỏi. Khi ăn chúng ta cuốn với cải xà lách, kèm thêm thịt ba rọi luộc xắt lát mỏng, thêm bún, khế, chuối chát, gừng, ớt xắt lát. Chúng ta có đủ hương vị : cay, nồng, béo, chua, chát, mặn, ngọt. C̣n Mắm Ruột là làm từ ruột cá lóc, v́ ruột th́ ít cho nên hiếm, giá đắt.

 

Tại trung tâm tỉnh lỵ Châu Đốc, c̣n có một cây Bồ Đề chánh gốc Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ, nơi đức Phật đă thành đạo, Hội Thông Thiên Học Quốc Tế trụ sở tại Ấn Độ, Hội ấy tặng cho ông Phạm Ngọc Đa, Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Việt Nam, Hiệu Trưởng đầu tiên của Thủ Khoa Nghĩa, ông được Tỉnh Trưởng cấp đất nên hạ thổ trồng vào năm 1952.

 

Cuối năm học, tôi đứng hạng nhất của lớp, ngày phát thưởng tổ chức tại rạp hát Lạc Thanh, rạp duy nhất của tỉnh, nằm ngay tại đầu chợ. Phần thưởng tôi lănh được quyển Việt Nam Tự Điển, sách Văn Phạm của Trần Trọng Kim ...

 

Thầy Châu Văn Tính là thầy giáo dạy rất giỏi, có lương tâm chức nghiệp, sau thầy làm Hiệu Trưởng trường đó rồi làm Thanh Tra học chánh tỉnh Châu Đốc. Khi về hưu, Thầy mua nhà trong cư xá Lữ Gia, tôi có đến thăm thầy một lần.

 

Gần cuối năm học lớp Nhất, một hôm chú kêu tôi hỏi :

 

’’ -  Người ta nói nhất nghệ tinh nhất thân vinh, chú muốn cho con học trường Bách Nghệ ở Sàig̣n, con có chịu không ? ‘’

 

Tôi nhớ trong năm ḿnh có làm bài luận, Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, nhưng lúc nầy, tôi đâu cần chi hơn là được đi Sàig̣n học, nên tôi chịu liền. Chú tôi viết thư xin cho tôi dự thi, nộp giấy thế v́ khai sinh..., sau đó trường Cao Thắng gửi thư cho chú tôi biết ngày và nơi thi, yêu cầu gần đến ngày thi, tôi lên trường Cao Thắng số 65 Đỗ Hữu Vị lấy phiếu báo danh.

 

Tôi mong nhanh chóng tới ngày thi vào Cao Thắng, năm 1948 hay 1949, tôi có lên Sàig̣n một lần, ở nhà thuốc Nhành Mai  nơi anh tôi làm việc ở đó, vào khoảng tháng 8 ta. Tôi c̣n nhớ, đêm Trung Thu con gái ông chủ nhà thuốc Nhành Mai gọi tôi lên lầu, chị đưa bánh Trung Thu cho tôi ăn, ban ngày tôi và một thằng bé cháu ông chủ Nhành Mai, đi quanh đó lượm nút chai, đến bến xe đ̣ xem xe chở khách, Sàig̣n với cyclo, xe điện với đèn xanh, đèn đỏ muôn màu, lôi cuốn tôi lúc tuổi c̣n thơ.

 

Khi thi tuyển vào Trung Học Thủ Khoa Nghĩa, tôi làm trật hết cả 2 bài toán, nhưng nhờ bài Luận văn và Câu Hỏi Thường Thức, tôi đậu hạng 51/300 học sinh trúng tuyển. Bé người đứng hạnh nh́ trong lớp, đậu thủ khoa, Toàn con chú tôi đậu hạng 36.

 

Sắp đến ngày thi vào Trường Cao Thắng, chú tôi bảo cho đi thi, có thi rớt cũng như thưởng cho tôi một chuyến đi chơi ở Sàig̣n.

 

Năm 1956, thi tuyển vào Cao Thắng, tôi dự thi tại trường Nữ Trung Học Gia Long với 3000 sĩ tử. Buổi trưa đi bộ xuống chợ Sàig̣n ăn cơm, ăn xong trở lại vườn Tao Đàn nằm nghỉ chờ tới chiều thi lại, nằm trên băng đá vườn Tao Đàn tôi nhớ tới Thằng Được, Thằng Bỉ trong tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của Hồ Biểu Chánh.

 

Thi xong về nhà, tôi được chú cho biết nhà trường thưởng cho tôi một chuyến đi Vũng Tàu 21 ngày, thế là tôi làm giấy tờ rồi vài hôm sau đi, từ các tỉnh, học sinh lên Sàig̣n tập trung ở Trường Tiểu Học Lê Văn Duyệt ngủ một đêm, hôm sau mới lên đường ra Vũng Tàu.

 

Trại do Thanh Tra Xường ở Vĩnh Long làm Trại trưởng, mỗi tỉnh cử 2 thầy hay cô giáo dạy thể dục thể thao đi theo, năm đó bộ Giáo Dục mua 2 dăi nhà của người Pháp, lập nhà nghỉ của học sinh, nó nằm trên đường đi Băi Sau cách chợ Vũng Tàu chừng 300 thước, cách bờ biển cũng chừng 200 thước, nơi đó cũng là trung tâm thành phố.

 

Học sinh chia thành từng Đội, đội chúng tôi là nhóm học sinh Châu Đốc với Học Sinh Chu Văn An Sàig̣n, nói chung trại sinh tuổi từ 8 cho đến 16 hay 17, trai có, gái có, giàu nghèo đều có, ai học giỏi đi khỏi đóng tiền, c̣n những học sinh khác đi Trại phải trả chi phí mất 800 đồng.

 

Sinh hoạt của trại th́ ngày ăn ba bửa, đi tắm biển thường xuyên, đi tham quan đèn pha trên đỉnh núi, đền thờ cá ông, xuống tàu Hải Quân đi Cần Giờ nhưng mới ra khơi nhiều người say sóng, tàu đành quay trở lại.

 

Trại sinh tất cả khoảng trên 300, 2 dăi nhà ấy mỗi nhà gồm hai tầng, mỗi tầng phải kê giường chồng mới đủ chỗ nằm, có những cậu c̣n nhỏ ban đêm ngủ mớ c̣n gọi Má ơi! Má ơi! Có cậu ngủ nữa đêm thức dậy la lối om x̣m v́ cậu nằm trên tè xuống !

 

Một hôm cũng gần đến ngày về, buổi sáng điểm danh mất hết hai trại sinh 9, 10 tuổi, có người cho biết hai cậu ấy nhớ nhà quá, tối cứ khóc nhớ mẹ, trại đi báo bót Cảnh Sát, cách đó chừng 100 thước, rồi trại sinh theo chương tŕnh sinh hoạt trong ngày, chẳng ngờ đến 3 giờ chiều, hai cậu bé được Cảnh sát mang giao lại cho Trại, chúng đă trốn lên xe đ̣ về tới Biên Ḥa bị Cảnh Sát chận lại gửi trả về cho trại. Tội nghiệp cho hai cậu bé, thầy cô phải khuyên nhũ và an ủi.

 

Thi vào Trường Cao Thắng, tôi chỉ làm trúng có một bài toán, tôi nghĩ là ḿnh thi rớt rồi, có bị rớt, tôi vẫn được học ở Thủ Khoa Nghĩa, hạng 51 vẫn có học bổng.

 

Trại Hè Vũng Tàu chấm dứt, về lại Trường Lê Văn Duyệt nghỉ tạm, tôi đi xe buưt vào Chợ Lớn thăm chị ruột tôi ở đó, chị ấy cho biết tôi đă thi đậu, chuyến về tôi mới cuốc bộ từ Bùng Binh Sàig̣n đến Trường Cao Thắng để xem kết quả, tôi thấy tên ḿnh ở hạng 132 trong 250 học sinh được trúng tuyển. Dù vậy tôi không biết chú tôi có cho tôi đi học ở Sàig̣n không? Cuối cùng chú tôi quyết định cho tôi đi học ở Sàig̣n.

 

Từ đó tôi xa Châu Đốc, sau nầy mỗi lần về thăm nhà, ban đêm tôi thích ra ngồi cầu tàu trước chợ Châu Đốc, để nh́n xuống ḷng sông, ghe, xuồng qua lại, nh́n qua bên kia Cồn Tiên, bên nọ Châu Giang, và nhất là tại chỗ đó tôi hiểu  được câu Ca dao :

 

     Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc,

     Gió nào độc cho bằng gió G̣ Công.

 

Đêm tĩnh mịch thức giấc, thỉnh thoảng nghe tiếng trống điểm canh đêm đêm của nhà việc Châu Phú. Tiếng trống thường gợi cho chúng ta nhớ đến thời xa xưa, đến người của những năm tháng cũ. Chú tôi, thầy tôi nay yên giấc đă nhiều. Có ai về Châu Đốc, xin cho tôi nhắn hỏi: - Tiếng trống sang canh  c̣n đó hay không ?

 

Trường Tôi bấy giờ là Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng

Tôi lên Sàig̣n, trước tiên ở nhà anh Police ngày xưa, nay anh đă chuyển sang ngành an ninh, chỗ anh làm có giam giữ tù nhân, nó nằm bên cạnh Xă Tây Chợ Lớn cũ, nhà anh th́ ở khu gia binh sau trường Chu Văn An ngày nay, xưa là gần khu nhà xác của bệnh viện Hồng Bàng, đi học th́ đi xe buưt, từ ngă sáu Chợ Lớn ra Lê Văn Duyệt rồi cuốc bộ lên Trường Kỹ Thuật Phan Đ́nh Phùng, nằm trong khuôn viên Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học Vụ số 48 đường Phan Đ́nh Phùng, chênh chếch trước mặt là Đài Phát Thanh Sàig̣n, bên hông là đường Phạm Đăng Hưng, có nhà thờ ḍng Saint Francier. Sau nầy Nha ấy đổi thành Nha Kỹ Thuật Học Vụ.

Trường Kỹ Thuật Phan Đ́nh Phùng là chi nhánh của Trường Cao Thắng, nơi đó có một dăi nhà, ngay cổng ra vào số 2 Phạm Đăng Hưng có nhà cho Gác Dan, bên cạnh có pḥng cho Giám Thị làm việc, kế đó là 6 pḥng học được xếp lớp Đệ Thất A, B, C, D và E c̣n một pḥng nữa, mấy tháng sau trở thành lớp học của Trường Kỹ Sư Công Nghệ khóa đầu tiên, do cụ Phạm Xuân Độ điều hành, qua khỏi đó là nhà vệ sinh. Trong khu nầy, ban đêm c̣n có Trường Quốc Gia Âm Nhạc do ông Nguyễn Phụng làm Giám Đốc, nơi đây tôi từng thấy nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, Nguyễn Hữu Ba..., do đó trong mỗi pḥng chúng tôi học, đều có một cây Dương Cầm, năm đó chúng tôi học nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, ông thường đàn cho chúng tôi hát những bài ông dạy.

 

Học vẽ và Công Tác Xưởng th́ phải về trường Cao Thắng học. Nếu tôi nhớ không lầm th́ năm tôi vào học là ông Khoan làm Hiệu Trưởng vừa Trường Cao Thắng vừa Trường Thực Nghiệp sau nầy đổi tên là Trường Nguyễn Trường Tộ, Trường nầy lâu đời nằm trên đường Hồng Thập Tự, một bên là bót Cảnh Sát Quận Nhứt, một bên là Ṭa Đại Sứ Pháp, và phía sau là Ṭa Đại Sứ Mỹ.

 

Sau nầy tôi có dịp đọc tài liệu mới biết, Pháp đến Việt Nam, để sửa chữa tàu họ cho lập Trường Thực Nghiệp tên của nó là Ecole d’ Apprentisage, đến đầu thế kỷ thứ 20, để nới rộng, mới cất thêm chi nhánh là Trường Cao Thắng, nên hiệu trưởng chỉ là một ông điều khiển hai trường. Học sinh ra trường thường theo ngành Hàng Hải hay Hải quân, do đó những Đô Đốc Trần Văn Chơn, Đề Đốc Chung Tấn Cang ... xuất thân từ trường nầy, Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng cũng học trường nầy. Theo lời ông Phan Kim Báu Hiệu Trưởng Nguyễn Trường Tộ thuật lại:  Năm 1945, Nhật đảo chánh Tây, họ chiếm đóng trường và đem hồ sơ ra đốt hết, gồm cả học bạ, cho nên ngày nay không ai c̣n t́m ra chứng tích. C̣n phải nói thêm, ông Nguyễn Hùng Trương, Giám Đốc nhà sách Khai Trí cũng học Cao Thắng, và người cuối cùng tôi muốn nói đến đó là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng học Trường Cao Thắng. Ngày xưa mỗi lần Tổng Thống đi công du, các Tổng, Thứ, Bộ Trưởng, Giám Đốc phải ra sân bay tiển đưa, hay chào đón lúc về, Tổng Thống Thiệu gặp ông Giám Đốc Nha Kỹ Thuật Học Vụ Lư Kim Chân vốn là thầy cũ, Tổng Thống Thiệu lễ phép, chấp tay cúi đầu chào, phần đông người ta chỉ biết học sinh Cao Thắng dao to búa lớn, ít ai biết rằng họ rất lễ phép với Thầy ḿnh, có dịp tôi sẽ nói thêm.

Giáo sư th́ đa số là Giáo sư dạy giờ như Trần Đức Can, Hiệu Trưởng trường Tiểu Học Đinh Tiên Hoàng dạy Pháp Văn, ông luôn luôn mặc Veston, đội nón Flechet, tay mang găng, giáo sư Sơn tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội đă về hưu, dạy học đi bằng xe Fiat, Bác sĩ Kim dạy Việt Văn, ông có pḥng mạch ở Quận Tư, ông trích giảng truyện chi đó tôi đă quên tên, trong ấy có nhân vật Bảy Hổ, tên nầy chúng tôi đặt thành biệt danh cho Nguyễn Thanh Ṭng, nay anh ở San Jose, Bác sĩ Kim c̣n đem thơ Thanh Tâm Tuyền ra giảng cho chúng tôi nghe, ông bắt học thuộc ḷng, tôi không c̣n nhớ tựa bài chỉ nhớ được vài câu:

 

Mưa bên kia sông,

Mưa nửa gịng nước.

Hồn nhiên tôi trở thành thi sĩ ca dao ...

 

Dạy Hóa Học tôi không c̣n nhớ tên ông giáo sư ấy, ông hay nói : Thí rượu , Xưởng th́ học với Giáo sư Lê Văn Chịa, ngày ấy ông đi chiếc Traction đen, Kỹ Nghệ Họa th́ học với Giáo Sư Trần Văn Đặng, Anh văn học với giáo sư Phan Hữu Tạt ở Pháp mói về, ông đi dạy bằng xe Wolfwagen.

 

Hai ông giám thị, trong ấy có ông Giám Thị Tài, mang kiếng cận, người thật mập, giống như h́nh biểu thị vỏ xe Michelin, ông phạt gắt lắm, hở mỗi chút là Consigne, anh em mới đặt cho ông biệt danh là ông Michelin. Tôi cắt móng tay trong lớp, lúc không có giáo sư dạy, nên ông lại ngồi trong lớp để giữ trật tự, ông nghe được tiếng lách cách ấy, tôi bị double zero conduite và consigné một tuần. Sổ Consinge ông kư đầy hết, nhưng đến Lễ Quốc Khánh 26-10-1956 ông bèn vào lớp tuyên bố : ‘‘Do ăn mừng Lễ Quốc Khánh, tôi tha phạt hết cho các tṛ ‘’. Học sinh mừng hết lớn!

 

Năm Đệ Thất tôi học lớp E với Nguyễn Thanh Ṭng, Trương Công Phước, Bùi Văn Chín, Lương Minh Mẫn, Lương Minh Đạt, Nguyễn Văn Ḥa, Mai Hữu Tâm, Lư Phụng Toàn, Tăng Tấn Tài, Lư Phước Châu, Trần Xuân Vĩnh Quế, Lương Văn Sĩ, Trần Văn Đắt, Trần Văn Trường, Lê Văn Thơm, Nguyễn Hữu Hiệp, Phan Tùng ...

 

Đến 50 mạng và gần 50 năm qua rồi kể từ năm 1956 đó, khó mà nhớ hết. Trong số học sinh lớp ấy có Mai Hữu Tâm đi học bằng xe Push xanh, c̣n Lư Phụng Toàn Push đỏ, Lợi đi Gobel.

 

Vào năm Đệ Thất, anh em học sinh có phong trào đi học Nhu Đạo ở sân Phan Đ́nh Phùng với giáo sư Hồ Cẩm Ngạc, h́nh như trong số đó có Nguyễn Định An theo đuổi lâu năm. có thi cử và có đẳng cấp.

 

Một số khác đi học vẽ với họa sĩ Vương Quốc Đạt ở Ḥa Hưng hay Ngă bảy, trong đó có Dương Văn Thơm và Thạch Minh Thông, một số học làm thơ để thực hiện hoài bảo trở thành thi sĩ. Sau 1975 gặp lại Dương Văn Thơm anh cho biết cùng với Thạch Minh Thông lấy gỗ mít khắc tượng Phật bán cho cửa hàng bán đồ cổ ở đường Trần Quư Cáp, sau chuyển ra Lê Văn Duyệt ( nay là Cách Mạng Tháng 8 ), các anh chỉ nhận được 2 chỉ vàng, họ bán ra trên 2 cây.

 

Tôi ở trọ nhà anh An trong ngă sáu được một tháng anh bị thuyên chuyển, tôi chuyển ra ở trọ nhà người quen trong hẻm, trước Rạp hát Việt Long, hai tháng sau lại dọn về ở nhà Họa sĩ Phạm Thăng, vài tháng sau, tôi xin vào ở trọ ngay trong Trường Phan Đ́nh Phùng, nơi đây đă có Trần Văn Tự, Nguyễn Văn Sĩ, Trần Văn Long, Nguyễn Trung Trực, Trần Xuân Vĩnh Quế, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Giáp tự Giao, Nguyễn Tiến Minh bút hiệu Nhất Giang, Huỳnh Văn Huê cũng có vài người của Trường Quốc Gia Âm Nhạc, nay tôi c̣n nhớ là anh Nguyễn Quang Vui. Và hồi đó có mở lớp Sư Phạm Kỹ Thuật cấp tốc học một năm, lại có thêm anh Huỳnh Phương cũng ở đó, sau nầy anh có đi tu nghiệp ở Mỹ và dạy ở Trường Đà Nẳng. Sau 1975 anh vào Sàig̣n, thỉnh thoảng tôi cũng gặp anh, cho đến khi anh đi anh đi định cư ở Mỹ vào khoảng năm 1990.

 

Chúng tôi ăn cơm tháng ở quán Ba Đờn chỗ ngă tư Phan Đ́nh Phùng và Nguyễn bỉnh Khiêm, thường ngày là cơm đĩa với cá kèo kho hột vịt và đậu xào, một thời gian sau vài anh em tự nấu ăn, mua một cái Réseau đốt dầu hôi, một cái nồi nhôm, mội cái soon, đôi đủa cái chén là xong, thức ăn mua ở chợ Đa kao.

 

Ngủ th́, mỗi người một cái ghế bố, tối trải ra, sáng xếp lại, đặt ở góc nào đó. Ở đó có những kỹ niệm khó quên, có những đêm Huỳnh Văn Huê, Trần Xuân Vĩnh Quế và tôi đi bộ qua Cầu Bông, qua Lăng Ông đến một Cư xá sau nầy nằm trên đường Nguyễn Huệ hay Thích Quảng Đức, để Huỳnh Văn Huê xin tiền của người chị, rồi lội bộ ra Ngă Tư Phú Nhuận, theo đường Hai Bà Trưng, đến Trần Quang Khải trở về Chợ Đa Kao, gần đền thờ Phan Chu Trinh có hiệu Kem, mỗi đứa mua ăn một cây kem Eskimos, về tới trường cũng khoảng 10 giờ đêm, có khi cổng đă khóa, phải gọi anh Gác Dan Gourd Salan, người Ấn lai mở cổng.

 

Có những đêm chừng  9 hay 10 giờ, đi ra ngoài sân nh́n lên Building công chức ở đó, trên tầng lầu tư, đôi khi có cô ca sĩ vợ ông giáo sư kia ra đứng balcon, hai tay bà chống xuống  lan can để chịu thân ḿnh, đứng cuối nh́n xuống đất, trong nhà đèn mở sáng trưng, chiếu rơ người phụ nữ không mặc áo, đứng yên lặng một ḿnh, trông như một pho tượng tuyệt đẹp. Gourd Salan chép miệng nói : ‘‘ Trông thân h́nh tuyệt đẹp mà bà ta cũng tự nhiên quá. Chẳng lẽ ḿnh đứng ngắm hoài !‘’ Những năm gần đây tôi c̣n được vài lần xem bà ta tŕnh diễn trong Video, bà ta tuy tuổi đă cao, nhưng vẫn c̣n nét đẹp, c̣n đủ quyến rũ gợi tôi nhớ đến h́nh ảnh năm xưa.

 

Trong những người ở chung nơi đây, nay mỗi người một phương trời, kẻ mất người c̣n. Nguyễn Trung Trực tôi có gặp anh cấp bực Trung Úy ở Trại Lực Lượng Đặc Biệt Ban Mê Thuộc, Hà cũng Trung Úy Quân Cụ, Trần Xuân Vĩnh Quế đă hy sinh cho tổ quốc trước Mậu Thân.

 

Anh Nguyễn Quang Vui cùng tôi gắn bó như t́nh ruột thịt, nay anh ở San Jose, nhớ ngày nào tôi thi rớt Tú Tài, anh thuê nhà cho tôi có chỗ học bài, anh giới thiệu cho tôi cô em họ của anh ở Huế, tôi ra đó cô mời về nhà ăn cơm, lần khác anh cô đưa tôi đi Ciné rồi đi ăn chè ở Ga xe lửa, rồi về nhà ngủ lại trong thành nội, một lần cô đưa tôi đi xe bus về vùng quê ở Kim Long. Có một lần cô vào Sàig̣n, chúng tôi đi ăn chè Hiển Khánh ở đường Phan Đ́nh Phùng, đi xem phim Giă Từ Vũ Khí ở Rạp Văn Hoa Đa Kao, chúng tôi chỉ có duyên chớ không có nợ, Nếu ngày nay tôi viết cho nàng: ‘‘ T́nh chỉ đẹp khi c̣n dang dở ‘’, nàng chẳng phụ họa ‘’ Đời mất vui khi đă trọn cầu thề ‘’, đó là bài thơ Ngập Ngừng của Hồ Dzếnh như sau :

 

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé.

Tôi sẽ trách- cố nhiên - nhưng rất nhẹ;

Nếu trót đi, em hăy gắng quay về.

T́nh mất vui lúc đă vẹn câu thề,

Đời chỉ đẹp những khi c̣n dang dở.

Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,

Cho ngh́n sau... lơ lửng....với ngh́n xưa.

 

C̣n người nữa, tôi cũng khó quên, đó là Nguyễn Tiến Minh, bút hiệu Nhất Giang. Minh người Bắc, thỉnh thoảng có người đàn ông ở Đà Lạt xuống t́m Minh, Minh gọi là Bố, nhưng khi ông ta về rồi, Minh nói với tôi : - Ông ta không phải là bố ruột của tôi, mẹ tôi ngày xưa đi buôn, một hôm bị  tên cướp hảm hiếp sau sinh ra tôi. Tôi không tin lời Minh nói, tôi cho rằng hắn tiểu thuyết hóa cho đời hắn có thêm huyền thoại. Minh đi học, có lúc không tiền ăn, nhịn đói vài hôm, khi có tiền nhuận bút hắn mua chả quế, bánh dầy ăn thật hả hê, bù lại những bửa đói, cuộc đời văn nghiệp của Nhất Giang Nguyễn Tiến Minh bắt đầu với chuyện Chú Chuột Chù, hắn viết rồi gửi tới nhà văn Lê Văn Siêu in trong sách viết cho trẻ con như Dế Mèn Phiêu Lưu Kư của Tô Hoài. Sau khi sách Chú Chuột Chù của Minh được in năm 1958 hay 1959, Minh trở thành nhà văn Nhất Giang từ đó, sau nầy khoảng năm 1959, Kỷ Sư Cầu Cống Trần Văn Bạch thôi chức Giám Đốc Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật, Kỷ sư Nguyễn Được từ Pháp về thay làm Giám Đốc, Trần Lưu Cung làm Phó, chúng tôi không được ở trong khuôn viên Nha Kỹ Thuật nữa, Minh học trên tôi một lớp, tôi không rơ Minh bỏ học năm nào, có được mảnh bằng chi. Đă là văn sĩ Minh c̣n cần chi bằng kỹ thuật ấy.

 

Khoảng năm 1960, một hôm gặp Minh ngồi xích lô trên đường Pasteur gần ngă tư Hồng Thập Tự, Minh cho biết vưà ở tù ra, hiện ở đường Trương Tấn Bửu, cho số nhà bảo tôi đến chơi, căn nhà ấy tôi có đến thăm Minh, nhưng Minh đứng trên gác, tôi đứng dưới đường nói chuyện với nhau.

 

Về sau, Minh mua căn nhà nhỏ trong hẻm đường Lê Văn Duyệt, gần đ́nh Phú Thạnh (?), chỗ có quán Ba Ninh chuyên bán thức ăn Huế. Rồi Minh lấy vợ bắt tôi làm rể phụ bưng khai trầu rượu, vợ Minh Lư Mỹ Bạch, nhà ở trong hẻm đường Tô Hiến Thành, gốc người Sa Đéc. Sau khi đăi ăn ở nhà hàng ra về, vợ chồng Minh mời tôi và cô dâu phụ về tổ uyên ương của Minh, ăn xôi gà, rồi họ nhờ tôi đưa cô dâu phụ Trần Thị Thu Cúc về nhà.

 

Tôi lấy Taxi đưa Cúc về nhà ở đường Phan Văn Trị, gần ngă năm B́nh Hoà, từ đó tôi quen Cúc, đêm đêm tôi có đến nhà kèm nàng học toán để thi Tú Tài. Năm tôi lập gia đ́nh, tôi không mời và báo tin cho Cúc, đêm nhóm họ nàng đến nhà trọ gửi cho tôi món quà, hôm sau mở quà ra là một đĩa hát, trong đó Phương Dung hát bài Thương Hoài Ngàn Năm và một Album, Cúc ghi hai hàng chữ :

 

Thương hoài ngàn năm ....

Em nghĩ đó là t́nh của anh với chị.

 

Buổi tiệc cưới chúng tôi ở Đồng Khánh, Cúc mặc toàn trắng, chào chúng tôi đang đón khách và nói : - Tối hôm qua, em tưởng anh có nhà, em mang quà tới mừng anh chị, không gặp anh, em đă gửi lại, bây giờ em xin phép về.

 

Chúng tôi cố mời nhưng Cúc từ chối, lấy lư do nhà xa, lại nữa Sàig̣n giới nghiêm quá sớm, vào lúc 10 giờ đêm.

 

Sau nầy Minh mua nhà ở đường Nguyễn Cảnh Chân, xây lầu đúc 3 tầng, chạy xe đua, mở nhà xuất bản Chiêu Dương. Minh đă khuyến khích tôi viết sách, nhờ đó tôi đă viết quyển Kỹ Nghệ Họa lớp 9, để giảm chi phí, Minh t́m họa sĩ viết chữ, h́nh tôi vẽ, sách ấy in ra 5 ngàn quyển, Minh bán hết cho Khai Trí và tôi được 60 ngàn đồng, năm đó có lẽ 1971, năm sau tôi soạn sách Bài Tập Vẽ Kỹ Thuật, tôi mang đến cho ông Khai Trí xuất bản, và c̣n mấy quyển Kỹ Nghệ Họa lớp 8, lớp 10 ông Khai Trí đă mua nhưng chưa xuất bản.

 

Tôi vẫn thường đến chơi với Minh, có lúc hắn lên voi mà cũng có lúc xuống đất. Một hôm tôi đến, Minh đi khỏi, Bạch vợ Minh  trông coi công nhân đóng sách trên lầu, bảo tôi lên lầu v́ đang bận khách. Tôi lên đến nơi mới biết có Cúc ở đó, Bạch đang xem xấp ảnh của Cúc, rồi vừa cười đưa cho tôi một tấm ảnh và nói :

 

- Anh Tông xem tấm ảnh nầy đẹp nè !

 

Tôi vừa cầm ảnh mới xem qua, Cúc vội la lên :

 

-          Ấy! Anh đừng xem, em mắc cỡ lắm!

 

Đó là tấm ảnh màu, Cúc đang cho con bú, chắc là chồng Cúc đă chụp ảnh thằng bé đang bú sữa căng đầy ngực nàng.

 

Từ đó tôi không gặp Cúc nữa, tôi nhớ hồi đó có lần đi Ban Mê Thuộc, tôi có gặp Cúc ở Phi Trường Tân Sơn Nhất, Cúc bảo tôi : - Em đă đi dạy học ở B́nh Long, anh em làm Hiệu Trưởng trên ấy. Sau nầy B́nh Long mất, tôi tự hỏi bây giờ Cúc và gia đ́nh ở đâu ? C̣n Minh sau 1975, có lúc mua xe đ̣ lở, chở khách chạy đường Sàig̣n Cần Thơ, rồi cả gia đ́nh vượt biên sang Úc.

 

Sau nghe người ta nói, ở Úc Minh lại làm báo Chiêu Dương, sau khi tôi rời Việt Nam, nghe nói Minh đă về lại Việt Nam, chiêu đăi bạn bè và đă kinh doanh ở đó. Hồi c̣n ở Việt Nam tôi có gửi thư cho Minh ở địa chỉ báo Chiêu Dương, gần đây anh Nguyễn Thanh B́nh cho tôi địa chỉ Website Âu Cơ ở Úc, cơ sở kinh doanh của gia đ́nh Minh, tôi gửi Email tới thăm, tất cả đều không có hồi âm.

 

Năm Đệ Lục, tất cả học sinh về Cao Thắng học, Trường Kỹ Thuật Phan Đ́nh Phùng xóa tên, sau nầy nơi đó mở Trường Quốc Gia Thương Mại do Thầy Phan Hữu Tạt làm Hiệu Trưởng, Trường Nữ Công Gia Chánh Bà Nữ vợ ông Giám Thị Tập làm Hiệu trưởng, về sau khi các Trường Quốc Gia Âm Nhạc dời về vườn Tao Đàn, Thương Mại, Nữ Công dời lên Trường Bách Khoa Phú Thọ, nơi đây mở Trung Tâm Phan Đ́nh Phùng dạy tiểu thủ công nghiệp do họa sĩ Nguyễn Văn B́nh làm Hiệu Trưởng, sau nữa Toà Đại Sứ Mỹ lấy Trường Nguyễn Trường Tộ (trước là Trường Thực Nghiệp) để mở rộng thêm Toà Đại Sứ, đổi lại họ sẽ cất Trường Nguyễn Trường Tộ, gần khu Bến Xe An Đông, nơi cơ sở Trường Quân Y  cũ. Đến Tết Mậu Thân chánh phủ lấy chỗ đó cho nạn nhân tạm trú, rồi họ chiếm luôn, Mỹ phải xây cất trên Thủ Đức, v́ cơ sở quá khang trang nên Bộ Giáo Dục dành cho Trường Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, lấy tên là Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức, ông Nguyễn Văn Ái nguyên Giám Thị Cao Thắng, hồi đó ông thường mặc áo sơ mi ngắn tay trắng, quần vải Kaki vàng. Ông có du học ở Mỹ lấy được bằng Tiến sĩ giáo dục, được bổ nhiệm làm khoa trưởng, c̣n Trường Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ th́ vẫn ở tạm trong khuôn viên Nha Kỹ Thuật cho đến ngày nay.

 

Tôi nhớ năm Đệ Lục học Xưởng G̣ học với Thầy Quan, sau Thầy làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Cần Thơ và một Thầy nữa là ba của Đại, học Rèn với Thầy Hồ Văn Vầy, Lê Văn Kiệt và học Machine à Vapeur với Thầy Tỷ, khổ ơi là khổ, toàn bài là Pháp Văn, phải học thuộc ḷng về mô tả cơ cấu, vận chuyển của những bộ phận.

 

Ở lớp Pháp Văn học với Thầy Khuê, nghe nói xưa Thầy từng làm quận Trưởng ở quận nào đó, Thầy vào lớp cho học sinh chép bài rồi nằm dưới bàn học tṛ để nghỉ lưng. Thầy chọn những bài văn hay để dạy, tôi c̣n nhớ một bài đại ư như sau :

 

Có một gánh hát dạo ở Pháp, đến làng kia hát, anh hề diễu một câu thế nào đó làm mích ḷng khán giả, họ buộc anh ta phải xin lỗi, anh ta cho rằng ḿnh không có lỗi. Ông bầu bảo anh ta xin lỗi anh ta cũng không khứng chịu. Sau ông bầu nói rằng v́ miếng cơm manh áo, anh ta nên xin lỗi để cho mọi người được nhờ. Do đó anh ta bằng ḷng và ra sân khấu xin lỗi, anh ta nói :

 

- Tôi xin lỗi quư vị là tôi có lỗi !

 

Khán giả chẳng những hài ḷng mà c̣n vỗ tay tán thưởng anh ta, khi lui vào hậu trường, có đào kép hát hỏi, tại sao ban đầu bảo anh ta xin lỗi, anh ta đă nhất định không xin lỗi, sao bây giờ lại chịu xin lỗi, anh ta bảo :

 

- Hăy nghe cho kỷ lời tôi nói, tôi nào có xin lỗi chi đâu, v́ nếu tôi xin lỗi th́ đó là tôi có lỗi.

 

Lúc đó mọi người mới hiểu là anh ta chơi chữ.

 

Thầy Phan Hữu Tạt vẫn dạy Anh Văn, Sử Địa học với Thầy Nguyễn Ngọc Ẩn, Thầy cũng có du học ở Pháp. Toán học với Thầy Lê Bạc Sang, Thầy Sang với Thầy Trần Ngọc Đảnh, giờ học sinh ra chơi hai Thầy thường thả bộ, tṛ chuyện với nhau trong sân trường, h́nh như hai Thầy là đồng hương, quê ở tỉnh Cần Thơ.

 

Năm Đệ Ngũ, tôi và vài bạn cùng lớp bị chuyển sang Đệ Ngũ D, học chung với Hồ Ngọc Thu (con của Thầy Hồ Văn Vầy),Nguyễn Đắc Thận, Lê Kim Nghĩa, Dương Văn Thơm, Lê Văn Thơm, Trần Xuân Minh (?), Trần Thái Thông, Thạch Minh Thông, Tá, Nam, một cậu nữa lông tay rất dài, do báo Sàig̣n Mới của bà Bút Tra đăng bài có người lấy khỉ đẻ con, nên anh em gọi anh ta là con khỉ của bà Bút Trà.

 

Năm nầy học Máy Nỗ với Thầy Phan Văn Măo, Thầy rất khó, học với Thầy lớp im phăng phắc, mỗi lần Thầy gọi tới 2 học sinh lên trả bài. Anh em thường bảo giờ Thầy Măo ruồi bay ngang biết đực hay cái.

 

Thầy Nghiêm Xuân Sương dạy Lư Hóa, giọng Thầy hơi ngọng, bị học sinh nháy, một hôm Thầy nói : - Tôi nói ngọng là do Trời sinh, các em đừng cười, người có tật nguyền ḿnh đáng thương mới phải, cho nên ‘‘ Cái ǵ của Cesar hăy trả lại cho Cesar ‘’. Câu nói của Thầy, tôi vẫn thắc mắc về ‘‘ Cái ǵ của Cesar hăy trả lại cho Cesar ‘’ Chừng 30 năm sau, tôi mới t́m thấy ư nghĩa trong Thánh Kinh. Câu nói ấy xăy ra lúc Chúa đương thời, La Mă cai trị người Do Thái, dân Do Thái v́ đó chống lại nhà cầm quyền La Mă, người ta muốn hại chúa, nên hỏi Chúa có nên đóng thuế hay không ? Nếu Chúa bảo nên đóng thuế tức là Chúa không chống La Mă, dân Do Thái sẽ chống Chúa, nếu Chúa bảo đừng đóng thuế tức chống lại La Mă sẽ được ḷng dân Do Thái, nhưng nhà cầm quyền La Mă sẽ bắt bỏ tù Chúa v́ tội xúi dân chống nhà cầm quyền, lúc được hỏi như thế, chúa trả lời :

 

- Cái ǵ của Cesar hăy trả lại cho Cesar.

 

Mà Cesar là Đại Đế La Mă, có h́nh tượng in trên đồng tiền sử dụng thời bấy giờ.

 

Công Dân học với Thầy Lê Trọng Lễ, Thầy Lễ đang học Luật, em Thầy là luật sư Lê Trọng Nghĩa, nghe nói khi tập sự người ta đưa cho Thầy bào chữa cho một tên Việt Cộng, tội tử h́nh là cái chắc, cho nên anh em bảo gặp Thầy Lễ th́ chỉ c̣n nước bị tử h́nh.

 

Tôi nhớ h́nh như năm nầy Thầy Phạm Văn Luật thân phụ của Phạm Minh Luân làm Giám Thị kiêm Giáo sư hướng dẫn Hiệu Đoàn, cuối năm Thầy khuyến khích Dương Văn Thơm và tôi in Ronéo đặc san của Lớp, Thầy Lê Nguyễn Bá Tước dạy Việt Văn cho một mớ Stencil, Thầy Luật bảo tôi sang thư viện Quốc Gia nằm trước mặt Bộ Kinh Tế (sau nầy là Nha Động Viên của Tướng Trần Đ́nh Đạm, có xướng ngôn viên tiếng nói động viên Huỳnh Hữu Trí), mượn sách mà viết về Thất Sơn Huyền Bí, Thầy viết thư giới thiệu, tôi sang gặp ông Lê Ngọc Trụ đồng tác giả với thầy Luật về quyễn Săi Văi của Nguyễn Cư Trinh, ông Trụ c̣n là tác giảViệt ngữ Chánh tả tự vị .... , ông Trụ đưa cho tôi quyển sách Pháp văn viết về địa lư miền Nam của Trương Vĩnh Kư, tôi đem về nhà đọc cả tuần không thấy thú vị, không trích được bài nào, bây giờ nghĩ lại thấy ḿnh quá dại, sách của đại văn hào, tại ḿnh dốt đó thôi. Ông Luật c̣n xía tay vào định mệnh của tôi, nếu có định mệnh, tôi sẽ nói tới sau.

 

C̣n tờ báo Xuân, thuở đó Thơm và tôi t́m được một hiệu Ronéo ở gần Trường Trần Lục Tân Định, b́a Thơm vẽ cành mai vàng, với 4 tờ Stencils để in 4 màu: Xanh dương, vàng, đỏ, đen, và trộn 4 màu thành ra technicolor, đạt được kỹ thuật cao, đẹp hơn tất cả báo xuân cùng quay Ronéo trong năm đó.

 

Xưởng máy ô tô, thuở đó được Toà Đại Sứ Anh cho một động cơ JET, để gần bàn Thầy Măo, anh học sinh nào cũng hảnh diện v́ trường ḿnh có máy móc tân tiến, nhưng nh́n chớ không dám rờ tới.

 

Có hôm học với Thầy Huỳnh Văn Thức, thân phụ của Huỳnh Hữu Trí, ông đem động cơ nổ ra bảo tháo hết ra rồi lắp lại, làm cho tới chiều mới xong, lắp rất cẩn thận nhưng khoi xong th́ c̣n dư cả nắm tay nào nào bù lông, đai ốc, ṿng đệm. Đem mấy món lục cục ấy hỏi Thầy Phạm Văn Tới, Thầy bảo : - Mấy em coi có cái lỗ nào đó, liệng hết nó vào trong máy đi, máy nầy cũ lắm rồi, bao nhiêu năm chẳng ai rớ tới, máy cũ lúc sửa chữa người ta thêm chỗ nọ chỗ kia, ḿnh lắp đúng kỹ thuật th́ nó dư. Tại buổi sáng các em làm mất trật tự, ông Thầy phạt bắt tháo máy chớ học hành ǵ cái máy cơ lỗ sĩ đó ! Học sinh có anh nói : - Hèn chi ! C̣n mớ kia, anh em lén liệng luôn vô thùng rác.

 

Thầy Thức nói giọng Nam rặc, Trí nói giọng Bắc rặc, hỏi Thầy tại sao vậy ? Thầy trả lời :

 

- Có chi khó đâu ! Hồi 1945 tôi đi tàu ra Hải Pḥng, kẹt ở đó, nó sanh ở Bắc, lớn lên ở Bắc nên nói giọng Bắc rặc ṛng.

 

C̣n Thầy Hồ Văn Vầy, đến năm 1969 tôi xuống đơn vị Quân Cụ ở Sóc Trăng, mới vào tŕnh diện với Đại Úy Đại Đội Trưởng, ông đang căn dặn tôi chỗ ăn ngủ vừa xong, một anh Trung Sĩ nhất chào tôi cái cụp :

 

- Thưa Thiếu Úy!  Có người mời Thiếu Úy ra quán.

 

Tôi c̣n đang phân vân, Đại Đội Trưởng khuyên tôi :

 

- Có anh em mời th́ anh đi chơi đi, chỗ lạ có người quan th́ tốt cho ḿnh.

 

Tôi chào Đại Đội Trưởng rồi theo anh Trung sĩ đi chẳng mấy bước tới chiếc cầu xi măng nhỏ, bên cạnh cầu là cái quán lá đơn sơ, bước vào quán nh́n thấy Hồ Ngọc Thu ngồi đó, chung quanh với một số đàn em. Hắn đẩy về phía tôi ly cối đầy bia nói :

 

- Ngồi xuống uống đi mầy! Giới thiệu với anh em, Chuẩn Úy Tông là bạn học cùng lớp, bạn đồng nghiệp cùng dạy trường kỹ Thuật, nay bạn đồng ly của đời binh nghiệp.

 

Đó là ngày binh nghiệp đầu tiên của tôi, từ đó Thu và tôi be bét nhậu, có những bửa uống với Mỹ, chúng say mèm, một hôm có anh Mỹ cố vấn Trung đoàn, mời chúng tôi về nhà hắn nhậu, vợ hắn là cô gái người Việt chuẩn bị cho chúng tôi thức ăn đầy bàn, rượu mấy thùng bia hộp. Thu th́ cứ hát  nhạc Trịnh Công Sơn : ‘‘ Người con gái Việt Nam da vàng, yêu đô la hơn yêu ṇi giống...’’, chị ta tránh mặt chúng tôi, nói từ trong buồn vọng ra :

 

- Uống dùm đi mấy anh ơi! Ai có phận nấy mà, chúng ta đâu có muốn mà được, thương nhau không thương th́ uống dùm đi, chớ cay đắng chi cho tội nghiệp thân em.

 

Thu th́ vẫn cứ hát, mà tôi th́ xót xa cho thân phận con người nhất là người Việt Nam, trong thời buổi chiến tranh, nay c̣n , mai mất, thân phận nhược tiểu, ai cũng như ai. Nhưng mà không phải Thu chế diễu, khinh bạc, bởi v́ nghe giọng Thu hát, nh́nh đôi mắt hắn đoanh tṛng lệ ứa. Thu hắn có tâm hồn, hắn chơi nhạc được và cũng vẽ được những bức tranh, xem ra nhà Thu bên cạnh Trường Mỹ Thuật Gia Định, chắc Thu có hoa tay hơn là học lóm.

 

Một hôm tôi bận việc kư các Phiếu hệ sửa chữa không đi uống bia được, Thu đi với các sĩ quan tài chánh đơn vị, đến chiều khoảng 6 giờ tôi đi ăn cơm về tới cổng, th́  đuợc hạ sĩ quan trực báo cáo có Thầy Vầy đi kiếm Thu, tôi mời Thầy lên xe jeep, chở Thầy đi Băi Xào không gặp, phải ra tận đường đi Vũng Thơm mới t́m thấy Thu.

 

Chúng tôi chở Thầy về thành phố, vào một cái quán ở bờ sông vắng khách ngồi, Thầy lấy trong túi bàng ra một chai Johnny Walker nhản đỏ, đặt trên bàn Thầy cười nhẹ nhàng và nói :

 

- Thấy con lâu về, ba má nhớ con, má con không khỏe nên ba đi thăm, có chai nầy nhậu đở.

 

Thầy Vầy và Thu, chuyện văng qua loa, chậm rải hớp từng ngụm Whisky pha Soda, tôi uống ít nhưng thấm nhiều về t́nh phụ tử của Thầy Vầy và Thu, họ có khoảng cách tôn kính vừa đủ để không làm mất sự thân yêu, cha bao giờ cũng ít bày tỏ t́nh cảm với con, nhưng qua ánh mắt, qua từng hớp rượu tôi thấy họ đă trao cho nhau t́nh cảm sâu sắc đậm đà. Cho đến gần 11 giờ đêm, chúng tôi đưa Thầy về ngủ trong trại, sáng dậy sớm đưa Thầy ra quán Cây Dương ăn điểm tâm, rồi tiễn Thầy ra về.

 

Tôi nhớ những vị Hiệu Trưởng như là ông Khoan, ông Trà cụ Phạm Xuân Độ, rồi Kỷ sư Cao Thanh Đảnh, Giám Học là ông Minh, ông Lư Kim Chân, ông Lê Thanh Vân, ông Phan Văn Long, Tổng Giám Xưởng có ông Pḥng, Phan Văn Măo, Nguyễn Thành Đức, Tổng Giám Thị Có Lê Văn Chịa, Giám Thị có ông Pḥng, ông Kim, ông Luật, ông Tài, ông Khoa, ông Nén, ông Ái, ông Ngạc.

 

Ông Lư Kim Chân sau đi làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Vĩnh Long, trước khi làm Giám Đốc Nha Kỹ Thuật, Lê Văn Chịa đi làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Long Xuyên, Nguyễn Thành Đức làm Hiệu Trưởng Trường Nguyễn Trường Tộ.

 

Khi Kỷ sư Cao Thanh Đảnh làm Hiệu Trưởng, ông xếp những học sinh giỏi vào lớp A, rồi B, rồi C... năm Đệ Tứ, tôi học Tứ A trong đó có Trần Văn Xê, Se Văn An, Nguyễn Đ́nh An, Mai Văn Khoa, Trần B́nh Đức, Trần Hưng Bang, Dư Quang Thuấn, Trần Thanh Quang, Lư Thất, Lê Kim Nghĩa, Vũ Duy Dần, Ngô Phước Tường, Nguyễn Văn Thuận, Lê Văn Quang, Nguyễn Kim Biên, Nguyễn Đắc Thận, Nguyễn Hữu Thế là một lớp học sinh giỏi về sau ra Kỷ sư có Nguyễn Đắc Thận, Dư Quang Thuấn, Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật có Lư Thất, Lê Kim Nghĩa và tôi. Riêng Trần B́nh Đức, năm đổ Tú Tài 2 Kỹ Thuật hạng B́nh, đậu luôn Math G ở Đại Học Khoa Học, nhưng ngày kêu kết quả Tú Tài là ngày đưa anh vào bệnh viện Grall, v́ anh bị đau màng óc, anh trối lại các em đừng cố học như anh, rồi anh từ trần năm đó.

 

Pháp Văn học với ông Nguyễn Văn Chiểu nguyên Thanh Tra quân đội ở ngoài Bắc thời chánh phủ Nguyễn Văn Tâm, Việt Văn học với Lê Nguyễn Bá Tước.

 

Học Kỹ Nghệ Họa với ông Dương Khắc Long, ông Long dạy có in bài Ronéo phát, đở phải chép bài, cho tới nay tôi vẫn c̣n t́m cách lư giải, câu hỏi của Thầy Long là : - Tại sao người ta nói ḿnh ên ? Ví dụ như tôi đi có một ḿnh ên. Chữ ên do đâu mà ra ?

 

Sử Địa th́ học với Thầy Nguyễn Khánh Nhuần, Thầy Nhuần đi dạy bằng xe hơi, ăn mặt đúng mode, đầu chải láng, theo như chính Thầy kể, xưa Thầy học trường Sư Phạm để ra dạy cho con em của Pháp, vợ của Thủ tướng Lào Souvana Nouvong hay Phouma là bạn học với Thầy lúc ấy, sau Thầy được bổ dụng qua dạy ở Vientaine Lào, rồi 1945 xảy ra, Thầy phải chạy sang Thái Lan lánh nạn và làm nghề thầy bói, Thầy có làm Hiệu Trưởng Trường Đông Tây Học Đường, trường nầy đóng cửa trước khi tôi lên Sàig̣n học, nhưng cơ sở vẫn c̣n thấy ở đường Hai Bà Trưng, sau Trung Quốc mua cất thành Ṭa Đại Sứ Quán Trung Hoa Quốc Gia ở Sàig̣n, nghe nói Thầy Nhuần là anh em với các tiệm vàng Nguyễn Thế Năng và Nguyễn Thế Tài, tôi không chắc là anh em ruột, v́ Nguyễn Thế Năng, Nguyễn Thế Tài thi phải Nguyễn Thế Nhuần, Khánh và Thế khác nhau.

 

Năm 1974, tôi được đề cử làm Hiệu Trưởng Trường Nguyễn Trường Tộ, Thầy Lưu Minh Tuấn - em của Thầy Lưu Luân Trọng, chú ruột của Lưu Bá Đại dạy Kỹ Nghệ Họa ở Cao Thắng - góp ư kiến tôi nên nhờ Thầy Nhuần xem cho ngày bàn giao, tôi phải nghe lời. Thầy Tuấn chở xe gắn máy đưa tôi đến nhà Thầy Nhuần ở một hẻm chênh chếch trước chợ Tân Định, Thầy xem cho ngày bàn giao phù hợp với ngày giờ anh Phạm Văn Tài muốn bàn giao sớm. Chưa đầy một năm Việt Cộng đă vào, cho nên tôi không biết được có ǵ hên xui không, v́ mọi việc trường vẫn b́nh thường.

 

Tôi không nhớ thời điểm bắt đầu, nhưng khoảng thời gian nầy th́ có chị Chín, có xe bán nước ngọt đặt gần xưởng Nguội, sau lại có thêm cô Liên, chừng 16 hay 17 tuổi phụ giúp bán với chị Chín, cô Liên trở thành cây Si cho nhiều người trồng, nên xe nước chị Chín đông khách hơn trước kia.

 

Ngoài cổng trường, những xe đổ hột xí ngầu lắc, ăn ḅ ṿ viên, xe bột chiên, bánh ḿ thịt, khô mực ... bán chiếm ḷng lề đường, cảnh sát quận nhất đuổi chạy qua bên kia là quận nh́, quận nh́ đuổi chạy lại quận nhất, ranh giới chỉ là con đường Công Lư.

 

Thầy Phan Hữu Thành là huấn luyện viên Thể Dục lâu năm của trường, sau có thêm Thầy Phạm Văn Sửu, năm Đệ Tam trường bắt học sinh lớp Đệ Tam tham gia thể dục đồng diễn, anh em tập nhiều tuần lễ dưới sự hướng dẫn của Thầy Thành, đến ngày tŕnh diễn ở sân Tao Đàn, có Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chủ tọa, tôi nhớ đến đoạn ngồi hai chân duỗi thẳng cúi ḿnh ra trước, hai tay chạm vào ngón cái lấy đà, lộn nhào một cái, rồi đứng ở thế thấp, bắp vế nằm ngang, hai tay đưa về phía trước, động tác nầy anh Sa ở Đệ Tam B hay C người hơi thô, nên chân anh cứ dựng đứng lên trời, Tổng Thống Diệm ph́ cười. Ngày ấy đủ các trường Gia Long, Trưng Vương, Trương Vĩnh Kư, Chu Văn An ...

 

Năm Đệ Tam nầy, tôi nhớ học Toán với Thầy Nguyễn Mạnh Cung là Giám Đốc Phi Trường Tân Sơn Nhất, Thầy có đưa anh em lên phi trường tham quan, đặc biệt Thầy đưa lên đài không lưu chỉ rơ những đường bay, những hỏa hiệu.

 

Học Kỹ Nghệ Họa với Kỷ sư Lâm Trưởng khu Bắc Công Chánh ở Sàig̣n, Lư Hóa học với Trần Ngọc Đảnh.

Tôi nhớ học Pháp Văn với giáo sư Lương Thọ Phát, tiến sĩ Văn Chương Pháp, ông dạy về Le Cid của Corneil, nay tôi chỉ c̣n nhớ mỗi câu : ‘’ -  Je peur tout autre que vous ‘’.

 

Anh Văn học với ông Bửu Nghi, Giám Đốc Đài Phát Thanh Sàig̣n, chính ông Bửu Nghi tiết lộ khi cuộc đảo chánh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi 11-11-1960, nhảy dù bao vây Dinh Độc Lập nhưng Đài Phát Thanh họ không kiểm soát, Dinh Độc Lập nội bất xuất, ngọai bất nhập đâu có làm sao đem băng từ trong đó ra để đài phát. Đài đă nhờ một người nhái giọng Tổng Thống để gọi Đại Tá Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đem quân từ Sư Đoàn 7 ở Mỹ Tho về cứu giá. Tuy ông Bửu Nghi không cho biết người có tài nhái giọng ấy là ai, nhưng chúng ta đều biết chỉ có quái kiệt Trần Văn Trạch, biệt tài của ông đă làm cho cuộc đảo chánh thất bại. Bửu Nghi từ Phó Giám Đốc được đề cử Giám Đốc thay vào chỗ nhạc sĩ Thẩm Oánh đă về hưu trước đó.

 

Kỷ sư Lâm dạy Kỹ Nghệ Họa một thời gian ngắn, ông bận việc nên giao cho Kỷ sư Nguyễn Văn Quang xuất thân từ trường Công Nghệ, kỷ sư Quan dạy chiều Thứ Bảy, ông đặt vấn đề: ‘’ Các anh nghe giảng xong bài Kỹ Thuật Học, đến giờ Vẽ muốn làm chi th́ làm, miễn hết giờ góp bài làm tuần trước cho tôi là đủ.’’ Thế là sau khi nghe giảng xong phần kỹ thuật, anh em đa số bỏ lớp đi quanh chợ Sàig̣n hay chui vào các Rạp Hồng Bàng, ở đường Pasteur, bên hông Trường Cao Thắng, rạp Nam Việt đường Tôn Thất Thiệp ( ? ), Casino Sàig̣n nằm trên đường Pasteur, Lê Lợi ở gần ngă tư Lê Thánh Tôn, Nguyễn Trung Trực, Vĩnh Lợi nằm cạnh bệnh viện Sàig̣n, đa số anh em thích đi Lê Lợi hơn v́ nơi đó có treo chiếc đồng hồ, phía tường bên cạnh màn ảnh, cho nên dễ biết giờ giấc ra về.

 

Trên đường Lê Lợi c̣n có các nhà sách Lê Phan, Văn Hữu, Khai Trí, Việt Bằng để anh em xem sách, c̣n anh nào có tiền ngồi quán Kim Sơn ngay góc Nguyễn Trung Trực Lê Lợi để nh́n nam thanh, nữ tú đi mua sắm, cũng có khi người ta nói: ‘‘ để nh́n ông đi qua bà đi lại ‘’ hoặc là ‘‘ để rửa mắt ‘’.

 

Học Cao Thắng, tôi tin rằng anh nào cũng có dịp hàng tuần đi dạo một lần cho thanh thản tâm hồn.

 

Năm Đệ Tam và Đệ Nhị học sinh lớp A không thay đổi, năm Đệ Nhị A tôi nhớ học Pháp Văn với giáo sư Nguyễn Văn Kiết. Sàig̣n có Giáo Sư Kiết và Giáo sư Lúa dạy Pháp Văn, gặp một trong hai ông ấy coi như đi đong, chỉ trừ anh nào xưa kia có học trường Pháp hay đang theo học Alliance Francaise th́ c̣n có điểm. Một hôm học trên lầu phía ngoài đường, dăi lớp nằm sát văn pḥng, ông Kiết gọi Vũ Đ́nh Dần lên bảng viết một câu Pháp văn, Dần viết không xuôi, ông giận quá bước lại định nắm anh Dần ném xuống lầu, nhưng ông bước đến nh́n thấy anh Dần cao hơn ông, ông mới ph́ cười. Ông Kiết có bằng Cao Học Triết của Pháp, sau ông dạy Văn Khoa, Vạn Hạnh rồi Mậu Thân, ông vào bưng tham gia Chánh Phủ Giải Phóng Miền Nam giữ chức Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục.

 

Kỹ Nghệ Họa học với kỷ sư Nguyễn Văn Phúc, được vài tháng ông Phúc đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ, kỷ sư Lê Tài Quấc dạy thế, sau ông Quấc ra ứng cử Thượng Nghị Sĩ trong liên danh Bông Sen.
 


 

Lư Hóa học với Thầy Đào Đức Vĩnh, h́nh như Thầy Vĩnh là giáo sư Vơ Trường Toản, Thầy dạy sách của ông Lâm nhưng các bài tập Thầy đọc thuộc ḷng cho học sinh chép.

 

Toán học với Kỹ sư Khí Tượng Hoàng Hồng, có hôm Thầy nghe học sinh t́nh nguyện đi Thủ Đức, Thầy lập lại lời của người xưa : ‘‘ Quốc Gia hữu sự thất phu hữu trách ‘’. Sau Thầy Hồng bị động viên, có học sinh truyền tin Thầy bỏ nhiệm sở, đi trốn lính chớ không đi theo tiếng gọi của quê hương. Thiệt hư tôi chẳng biết.

 

Cuối năm học tôi đứng hạng tư trên 37 học sinh, có được phần thưởng, vậy mà tôi thi rới Tú Tài, người ta chỉ thi rớt 2 keo là đau lắm rồi, vậy mà năm đó tôi rớt tới 4 keo trong 1 năm. Hai lần thi kỹ thuật và hai lần thi phổ thông.


 

Thi rớt, tôi buồn quá bỏ về quê, chẳng thiết đến những chuyện khác, đến khai trường lại, bị xếp vào học lớp Đệ Nhị 5, là lớp cuối cùng của 5 lớp Đệ Nhị, hỏi ra tôi mới biết là kể từ năm học đó Trường chỉ có 1 sinh ngữ, học sinh phải chọn Anh hay Pháp, có 4 lớp Pháp Văn và 1 lớp Anh Văn. Tôi bị đưa vào lớp Anh Văn v́ tôi bỏ Sàig̣n về quê, không nộp đơn học lại, đến ngày hết hạn, ông Giám thị Phạm Văn Luật làm đơn cho tôi, không biết tôi chọn Pháp hay Anh Văn, ông t́m học bạ thấy Pháp Văn tôi được 13 điểm của giáo sư Kiết c̣n Anh văn, tôi được 14 điểm của giáo sư Nguyễn Đ́nh Hải vốn là chuyên viên của Unessco, cuộc đời tôi bị giám thị Luật xía vào số mạng từ đó. Thật ra tôi đâu có giỏi Anh Văn, chẳng qua tôi làm nhiệm vụ ôm sổ ghi danh, sổ ghi đầu bài, giáo sư Hải hiếm gọi tôi đọc Quatrième Bleu, nhưng thương hại cứ cho tôi 14 điểm. Được thầy thương cũng là tai họa.

 

Nhưng bù lại, Hiệu rưởng Cao Thanh Đảnh cho toàn là giáo sư giỏi dạy lớp ấy : Việt Văn với Giáo sư Lê Nguyễn Bá Tước, Sử Địa Nguyễn Khánh Nhuần, Anh Văn Phùng Thịnh thực hành với bà Le Blanche, Kinh Tế học Luật sư Vũ Tứ Cầu, Toán Cù An Hưng, Hóa giáo sư Bùi Xiêm, Lư Kỷ sư Quyền dạy ở Trường Cao Đẳng Điện Học Phú Thọ, Kỹ Nghệ Họa Lê Tài Quấc, Xưởng Huỳnh Văn Thức.

 

Học sinh ở lại lớp với tôi có Huỳnh Ngọc Điệp, Hồ Ngọc Điển, Vơ Duy Khiết, Ngô Phước Tường, những học sinh ở lớp sau lên học chung có Huỳnh Hữu Lộc, Hoàng Thanh, Trần Văn Thành, Nguyễn Văn Nghĩa, Phan Thành Tưa...

 

Tôi có học chung với Huỳnh Ngọc Điệp lớp Ngũ D lúc đó các anh học làm thơ, sau đó Điệp trở thành thi sĩ, anh có thơ đăng trong Tập San Sáng Dội Miền Nam do Tchya Đái Đức Tuấn làn chủ nhiệm. Hoàng Thanh là con của Nghị sĩ Hoàng Thế Phiệt được phong hiệp sĩ của Ṭa thánh La Mă, sau anh tốt nghiệp Kỷ sư công nghệ rồi du học ở Pháp, riêng Huỳnh Hữu Lộc thường đưa tôi sang rạp Hồng Bàng tán tỉnh cô bán vé, cô ấy trông rất đẹp và thuỳ mị dễ thương, nhưng c̣n nữa Lộc quen với Hạc con của Hoàng Trọng Miên, Hạc đẹp lắm, nước da trắng, môi son đỏ, tóc hớt ngắn, ba chúng tôi thường đi dạo phố Lê Lợi, chúng tôi chơi thân thiết nhau, ra đường nhiều người đi qua c̣n phải ngoái lại nh́n Hạc.  Có hôm tôi đến nhà Hạc ở đường Phạm Ngũ Lăo (gần chùa An Lạc ), gặp chị Phụng, tôi biết chị đang hoạt động cho bên kia, té ra chị là em của ông Thanh Nghị người viết Tự Điển Việt Nam cũng là nhà Văn Hoàng Trọng Miên, chị là cô của Hạc. Sau 1975, tôi không gặp chị Phụng, không biết chị ra sao, riêng Hạc năm 2000, gặp lại bạn bè ở Cali, cho biết Hạc đă lấy vợ và định cư ở Pháp, c̣n Lộc sau khi ra trường Cao Thắng du học ở Nhật về Việt Nam làm Phó Giám Đốc Vikyno, sau làm Giám Đốc, vượt biên bị bắt ở Bến Tre, thành phố Hồ Chí Minh can thiệp để Lộc về làm việc cho thành phố. Vơ Duy Khiết học Luật, sau làm Biện lư tỉnh Phước Tuy.

 

Cuối năm học nầy, tôi đạt được hạng 2 trên 38 học sinh, và tôi đă đỗ Tú Tài 1 hạng B́nh Thứ, năm ấy học sinh lớp Nhị 5, tỉ số đậu cao hơn các lớp khác, nhờ có các giáo sư dạy giỏi, nhất là Cù An Hưng.

 

Năm học nầy tôi chịu ảnh hưởng của Luật sư Vũ Tứ Cầu, ông viết chữ nhỏ, dùng bút bi nhiều màu để viết tựa, những mục, tiểu mục, chú thích, tôi đă theo cách thức ông tŕnh bày bài học và bài giảng sau nầy khi tôi đi dạy học.

 

Năm Đệ Nhất, c̣n lại 3 lớp, chúng tôi lớp Anh Văn Đệ Nhứt 3, học Sử Địa với giáo sư Nguyễn Bá Nhẫn ông xuất thân từ trường Cao Cấp Kinh Doanh của Pháp, lúc đó ông làm Giám Đốc nhà máy xi măng Hà Tiên, sau làm Tổng Cục Trưởng Tiếp Tế. Anh Văn học với giáo sư Phạm Văn Rao, Triết Học với giáo sư Nguyễn Mẫn, Toán và Lư Hóa với giáo sư Vũ Mộng Hà, Kỹ Nghệ Họa với giáo sư Trần Thế Can, Công Tác Xưởng với Thầy Lưu Luân Trọng.

 

Sau nầy vào học Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, tôi c̣n học với Thầy Phạm Văn Rao, Vũ Mộng Hà và nhiều giờ nhất là Trần Thế Can mỗi tuần 20 giờ trong năm học đầu tiên.

 

Đôi khi xem lại bài vẽ Kỹ Nghệ Họa cũ, có một bài tên của tôi, nhưng nét vẽ không phải của tôi. Cố moi óc nhớ chuyện năm xưa lúc c̣n đi học, lục t́m măi rồi cũng nhớ ra. Năm 1964 tôi ra thăm Huế, đứng nh́n hàng trăm nữ sinh với tà áo trắng đi trên cầu Tràng Tiền có Sáu Vài Mười Hai Nhịp, đi với người con gái xứ Huế dạo đến Kim Long, chia tay nhau với giọt lệ vắn dài ở phi trường Phú Bài, tôi hưởng những giờ phút vui tươi nơi cố đô, sánh vai với người đẹp đất thần kinh, th́ Hoàng Thanh ở nhà cậm cụi vẽ bài dùm tôi để nộp cho Thầy Trần Thế Can.

 

Thầy Vũ Mộng Hà có nhiều giai thoại ở Trường Cao Thắng, ngày Thầy đi dạy đầu tiên bị gác dan và Giám Thị không cho Thầy vào trường, Thầy phải nhắn mời Giám Học ra đưa Thầy vào, chỉ v́ Thầy đi dạy c̣n rất trẻ có dáng thư sinh ‘’ Trói gà không chặt ‘’, giám thị nghĩ Thầy là học sinh không mặc đồng phục, nên không cho vào trường, từ đó về sau Thầy Hà đi dạy phải thắt cà vạt để cho Giám Thị phân biệt, tôi nhớ mấy chuyện chứng tỏ Thầy Hà có trí thông minh tuyệt vời, Thầy dạy Toán, Lư Hóa Đệ Nhất, đang đọc bài cho học sinh chép, chuông reo hết giờ, Thầy bỏ ra khỏi lớp, tuần sau đọc tiếp cho học sinh chép. Bài tập Thầy chấm xong trả lại cho học sinh, sau đó chỉ gọi vài học sinh để ghi điểm, những học sinh khác Thầy ghi theo trí nhớ.

Thầy Vũ Mộng Hà và học sinh Nguyễn Xuân Thới
 

C̣n một chuyện nữa, để tôi kể theo thời gian. Hôm đó đi nghe kết quả thi Tú Tài 2, kết quả kêu vào khoảng 11 giờ, Ngô Phước Tường và tôi đến trường sớm nên đi ra Nguyễn Huệ chơi rồi theo đường Huỳnh Thúc Kháng trở về, khi đi qua ngă tư Pasteur, từ phía kia một chiếc cyclo chạy ngược chiều, trên xe chở một Á Xẩm, cô ta mặc váy đầm, vô ư gió thổi để tốc cái bùng rền lên, Tường nh́n tôi cười rồi nói : ‘’ - Chết cha rồi ! Đi nghe kết quả mà gặp cái điệu nầy, rớt là cái chắc! ‘’ Tường có vẻ lo âu, vào trường chúng tôi đi ngang pḥng Hiệu Trưởng, gặp Vũ Mộng Hà từ hướng Hội Đồng Thi ở pḥng Giáo Sư đi tới, tôi hỏi cầu may :

 

-          Thưa Thầy hai đứa em đậu rớt ?

 

Thầy cười và trả lời không chút suy nghĩ :

 

-          Cả hai anh đều đậu.

 

Tường và tôi không tin chút nào, v́ trước đó chúng tôi đâu có gặp để nhờ Thầy xem điểm, vậy th́ làm sao Thầy quan tâm đến, chẳng lẽ Thầy phải nhớ hết học sinh các lớp Đệ Nhất 1, 2 và 3.

 

Rồi kết quả được dán lên bảng, cả Tường và tôi đều đậu,  chúng tôi phục trí nhớ của Thầy Vũ Mộng Hà.

 

Tường và tôi c̣n một chuyện vui nữa, một hôm hai chúng tôi đạp xe về tới cái đồng hồ Chợ Bến Thành, có anh Cảnh sát đứng gác trong lồng chim, thổi c̣i chận các xe dừng lại cho người đi bộ qua đường, trước mặt chúng tôi có hai cô gái tuổi chừng hai mươi, chở nhau trên xe Velo Solex, cô ngồi sau ăn mặc thật hấp dẫn, Tường buộc miệng nói : ‘’ Chà Cô nầy ăn mặc Văm quá !‘’ Cô ấy nguưt Tường một cái rồi nói : ‘’- Muốn không ? Tao cỡi ra cho mà coi !‘’ Tường đáp ngay: ‘’ - Ấy Cảnh sát ḱa ! Đừng có làm ẩu nghe! ‘’. Tiếng c̣i Cảnh Sát ré lên, chiếc Velo vọt lẹ, Tường lắc đầu nói : ‘’ - Con gái ǵ mà dạn mồm, dạn miệng thế !‘’

 

Trong năm học cuối đó, một hôm vợ họa sĩ Phạm Thăng, đi làm ở Sở Vệ Sinh về, chị nói với tôi :

 

- Chú Sáu à ! Để chị giới thiệu cho chú một cô, đẹp và dễ thương, cùng làm sở với chị, nếu hạp chú có thể tiến tới hôn nhân.

 

Tôi ở trọ nhà họa sĩ  Phạm Thăng, anh chị xem tôi như ruột thịt, nghe chị nói tôi nghĩ ḿnh cũng không phải tệ, không làm quen với mấy cô được hay sao mà phải đợi có người giới thiệu. Nhưng nghĩ lại có gặp mặt cô nào đó th́ cũng có hại chi đâu. Thế là hai hôm sau ngày Thứ Năm tôi đến Sở Vệ Sinh ở đường Hiền Vương, cô ta có buổi tu nghiệp tôi không gặp được. Hai hôm sau tôi trở lại mới gặp, từ buổi gặp mặt đầu tiên đó, nhen nhúm trong tôi một cảm t́nh, sau đó tôi đến thăm chơi ở nhà, tôi biết nàng là học sinh Gia Long.

 

Tôi nhớ lại, năm xưa thời cụ Độ làm Hiệu Trưởng, có anh Tốt cầu thủ bóng tṛn của trường, không hiểu v́ sao lại phóng uế bên bờ rào của Trường Nữ Trung Học Gia Long, bị cảnh sát bắt giải ṭa về tội ‘’ Công Xúc Tu Sĩ ‘’. Thầy Phan Hữu Tạt nói : Cụ Phạm Xuân Độ Hiệu Trưởng Cao Thắng với bà Trần Thị Hội Hiệu Trưởng Gia Long có chuyện gây cấn nên : ‘’ Trâu ḅ húc nhau, ruồi muỗi chết ‘’.

 

Học sinh c̣n thường kháo nhau, cho là nữ sinh Gia Long chỉ để ư đến học sinh Petrus Kư, c̣n nữ sinh Trưng Vương chỉ để ư tới học sinh Chu Văn An, cho nên tôi cũng c̣n bị ám ảnh : Vói cho được nữ sinh Gia Long không phải dễ. Chính v́ vậy, tôi tự nhủ phải chinh phục cho được người đẹp, mà quả thật tôi đă được, đó là nhà tôi ngày nay.

 

Cho phép tôi được cám ơn nhà tôi, người đă khuyến khích, an ủi tôi nhiều mặt, lúc thành công cũng như khi thất bại, những ḍng ghi nầy nếu không có nhà tôi như nguồn cảm hứng thúc dục, chắc tôi cũng chẳng ghi chép được ḍng nào. Nhạc mẫu tôi, học Trường Áo Tím, nhà tôi học Trường Gia Long, con gái út của tôi học Trường Nguyễn Thị Minh Khai, 3 thế hệ có ba tên gọi khác nhau, nhưng cũng chỉ là một Trường Nữ Trung Học danh tiếng ở miền Nam.

 

Cũng như những trường khác là Petrus Kư, Gia Long, Bác Ái, Marie Curie... Trường Cao Thắng cũng có cái đồng hồ thật to, đặt trên lầu của dăi Xưởng, đối điện với văn pḥng, một số pḥng học cũng có thể nh́n thấy, nó đặc biệt là đứng ngoài đường cũng như ở trong sân trường đều có thể nh́n thấy giờ giấc trên chiếc đồng hồ nầy.

 

Trường tôi, Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, Trường Máy, Trường Bách Nghệ, nhiều người học ở đó, mỗi người có kỷ niệm khác nhau, nơi đó Tôn Đức Thắng, Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Thiệu những người làm nên lịch sử đă từng theo học, công với tội c̣n để ngh́n sau, với tôi cũng như nhiều người khác đă là học sinh của Trường Cao Thắng, sẽ không quên được những kỷ niệm về trường học của ḿnh, nó c̣n gắn liền với chợ Bến Thành với đường Lê Lợi. Đó là trung tâm, là nơi buôn bán sầm quất của thủ đô miền Nam. Xin mượn thơ của Nguyễn Du để diễn tả nơi ấy :

 

     Dập d́u tài tử giai nhân,

     Ngựa xe như nước, áo quần như nêm .   

 

Louisville, ngày 31 tháng 3 năm 2001