Hành Tŕnh Về Phương Đông
(Life and Teaching of the Masters of the Far East)
Tác giả: Dr. Baird T.Spalding
Dịch giả: Nguyên Phong
--- o0o ---
Chương 9
Cơi Vô H́nh
Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cơi vô h́nh. Khác với những đạo sĩ phái đoàn đă gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một ḿnh trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi. Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng ḷng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy g̣, khắc khổ và một thân h́nh mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
Giáo sư Evans-Wentz vào đề :
- Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
Pháp sư thản nhiên :
- Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cơi vô h́nh.
- Như thế ông tin rằng có ma…
Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :
- Đó là một sự thật không những ma quỷ hiện hữu mà chúng c̣n là đối tượng nghiên cứu của tôi.
- Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?
- Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, v́ con người thường sợ hăi cái ǵ mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đă phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hăi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa th́ có lẽ ta sẽ không c̣n sợ hăi. Các ông đ̣i hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?
- Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
- Được lắm, các ông hăy nh́n đây.
Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc pḥng để xuống đất. Ông ta thong thả :
- Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói ǵ, giáo sư Mortimer nóng nảy :
- Nếu ông nghiên cứu về cơi vô h́nh, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
Vị pháp sư nghiêm giọng :
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cơi giới, chứ không phải chỉ có một cơi này.
- Khi chết ta bước qua cơi trung giới và cơi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. V́ lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cơi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan ră giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan ră hết th́ con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao th́ quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không c̣n bao cát nào, th́ nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cơi âm, th́ cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xă hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, c̣n đầy thú tánh. V́ ở cơi âm, không có thể xác, h́nh dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các h́nh dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rơ rệt về cơi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu v́ đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường t́m cách trở về cơi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cơi trần không nh́n thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đ́nh tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để t́m những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà t́m cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng t́m cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục t́nh th́ quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và t́m cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích th́ ngay trong giây phút mà họ không c̣n tự chủ được nữa, các loài ma t́m cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. V́ không được thỏa măn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cơi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cơi này, mà thức tỉnh ở một cơi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta c̣n ở cơi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nh́n nhau, vị pháp sư Ai cập đă diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lư thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?
Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lư học tốt nghiệp đại học Oxford…
Giáo sư Harding giật ḿnh kêu lên :
- Oxford ư ? Ông đă từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.
(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đă phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lư).
- Nhưng làm sao ông biết rơ được cơi giới này ? Ông đă đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?
- Tôi đă khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi c̣n là sinh viên tôi đă say mê môn Vật lư siêu h́nh (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc th́ khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cơi âm, tôi đă học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cơi âm v́ tôi có thể sang tận đây học hỏi và cơi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu h́nh, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :
- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?
- Dĩ nhiên, v́ tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cơi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lớn là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích ǵ không ?
- Các ông nên biết cơi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cơi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rơ ràng…..
- Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….
- Ông có thể làm như vậy không ?
Vị pháp sư nghiêm mặt :
- Tất cả những việc ǵ có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, v́ chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thủy chữa bệnh.
- Xin ông nói rơ hơn về những cảnh giới cơi âm.
- Các ông nên biết dù ở cơi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể: thể lỏng, thể đặc và thể hơi, th́ bên cơi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấy vật nặng sẽ ch́m xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên th́ cơi vô h́nh cũng thế. Nguyên tử cơi âm rung động với một nhịp độ khác với cơi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cơi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải ch́m xuống dưới v́ nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáy cũng không thể lên sát mặt nước v́ đă quen với sức ép khác nhau. Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh h́nh dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đă là khổ sở lắm rồi, các ông hăy tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thỏa măn th́ c̣n khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không sao thỏa măn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra th́ y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.
Cơi giới thứ sáu có sự rung động rất giống như cơi trần, tại đây các vong linh ít c̣n thèm muốn vật chất như ăn uống, dục t́nh, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thỏa măn bản ngă, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận v.v...
Đa số có h́nh dáng giống như người cơi trần nhưng lờ mờ không rơ. V́ sự rung động của nguyên tử gần giống như cơi trần nên họ hay trở về cơi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyện vu vơ nhằm thỏa măn tự ái, bản ngă cá nhân. V́ đa số vong linh khi c̣n sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngă, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.
Cơi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cơi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đă bớt ham muốn về cá nhân nhưng c̣n ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ v.v...
Đây cũng là cơi có những sinh hoạt của loài Tinh linh: những sinh vật vô h́nh có h́nh dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (Sylphes), Thổ địa (Gnomes), Phong tinh (Elfs) v.v... Một số bị thu phục bởi các phù thủy, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cơi này c̣n có sự hiện diện của những "H́nh tư tưởng" (Artificial Elements).
Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh th́ chúng sử dụng tinh chất (Essence) cơi này tạo nên một h́nh tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. V́ đa số tư tưởng con người c̣n mơ hồ nên h́nh tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan ră ngay. Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một h́nh tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các h́nh tư tưởng sống đến cả năm hay thế kỷ, không những thế h́nh tư tưởng này c̣n chịu sự sai khiến của ông ta. Các phù thủy luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô h́nh để sai khiến. H́nh tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà c̣n từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ư nghĩ, họ sẽ tạo ra một h́nh tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. H́nh tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với t́nh cảm, phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là "Hồn thiêng sông núi" hay "dân tộc tính".
Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của h́nh tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía nghĩa là t́nh cảm của dân tộc đó chứ không ảnh hưởng đến lư trí. Một người sống nhiều bằng lư trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người b́nh thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ trong khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lư, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán.
Cảnh giới cơi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cơi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hóa, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng c̣n quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này.
Đa số đều ư thức ít nhiều nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau và đôi khi kết những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đ́nh hay quốc gia.
Cơi gới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ nhàng, tại đây có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lănh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (Devas) như Cảm-dục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Roupadeva) và Vô sắc thiên thần (Aroupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hóa cao hơn tŕnh độ của nhân loại.
Cơi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cơi giới mà những người tiến hóa rất cao, rất tế nhị không c̣n dục vọng, ham muốn lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng trước khi siêu thoát lên cảnh giới cao hơn."
- "Như thế người chết thường lưu lại ở cơi Trung giới bao nhiêu lâu?"
- "Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ... Để siêu thoát, thể Vía phải hoàn toàn tan ră hết th́ mới lên đến cơi Thượng Thiên (Devakhan) hay siêu thoát. Giống như một quả bóng bay bị cột vào đó nhiều bao cát, chỉ khi nào cởi bỏ tất cả bao cát th́ nó mới tự do tung bay được. Tóm lại danh từ như Thiên đàng hay Địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cơi Trung Giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể Vía khi chết mà ta thức tỉnh trong một cảnh giới tương ứng..."
Mọi người im lặng nh́n nhau, những điều Hamoud giải thích hoàn toàn hợp lư và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nh́n thấy được? Dù sao Hamoud cũng là một Tiến sĩ Vật Lư tốt nghiệp tại Đại Học nổi tiếng nhất Âu Châu chứ không phải một phù thủy vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lư thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học?
Hamoud mỉm cười tiếp tục:
- "Sự hiểu biết về cơi vô h́nh rất quan trọng v́ khi hiểu rơ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là h́nh hài, xác thân chứ không phải sự sống, và h́nh hài có chết đi th́ sự sống mới tiếp tục tiến hóa ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lư và khoa học cho ta thấy rơ sự công b́nh của vũ trụ. Khi c̣n sống, con người có dục vọng nầy nọ, khi dục vọng được thỏa măn nó sẽ gia tăng mạnh mẽ đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ v́ không c̣n lư trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là ǵ?
Giống như đức tính, phẩm hạnh khi c̣n trẻ quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cơi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lư và dễ chứng minh: Khi c̣n trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khỏe mạnh th́ khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi c̣n trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc th́ khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không?
Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đ̣i hỏi thể xác, th́ các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể Vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trược để khi chết sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người c̣n trẻ, ḷng ham muốn c̣n mạnh mẽ nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cơi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế ta cần phải duyệt xét lại đời sống của ḿnh ở cơi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cơi âm. Những người lớn tuổi cần chuẫn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền năo để mau chóng siêu thoát.
Một sự chuẩn bị ở cơi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cơi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cơi thượng giới."
- "Nhưng c̣n các ma quỷ th́ sao?"
- "Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể nào đó khác hẳn loài người, thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng c̣n lưu luyến cơi trần, c̣n say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này... Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cơi trần nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt khiến người cơi trần trong một thoáng giây có thể nh́n thấy chúng... Khoan đă, các ông hăy xem ḱa, người bạn của tôi đă làm xong việc."
Hamoud chỉ vào góc pḥng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đă thành h́nh từ lúc nào không ai rơ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích:
- "Con Ma này rất nghịch và thường quanh quẩn ở đây, tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi đă làm tṛ ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông th́ c̣n ai nữa?"
Quả thế, vị pháp sư gầy g̣ không thể mặc chiếc áo đan to tướng, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đă rất ư quá khổ so với những người Âu khác, đó là chưa kể ṿng bụng khổng lồ rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán v́ đường kim, mũi chỉ rất ư vụng về nếu có bán cũng chả ai mua. Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị Pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc:
- "Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao?"
- "Tôi không phải là một phù thủy, lợi dụng quyền năng cho tư lợi mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô h́nh bên cơi âm. Tôi hiểu rơ các luật thiên nhiên như Luân Hồi, Nhân Quả và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái ǵ.
Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cơi vô h́nh một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu h́nh là một khoa học hết sức đứng đắn chứ không phải mê tín dị đoan. Nhiều người thường tỏ ư chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ nên những ai có gặp ma cũng chả dám nói v́ sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hăy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, c̣n như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hăi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa điều này không có thật, v́ một ngày nào đó khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh. Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt thường gặp nhiều sai lầm v́ như tôi đă tŕnh bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có các kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong "Thánh Kinh" hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết. Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự ḿnh qua hẳn thế giới đó nghiên cứu.
Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh.
Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cơi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cơi th́ ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cơi trần nên chỉ giới hạn trong cơi này được thôi. Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể Vía được khai mở ta có thể quan sát các cơi giới vô h́nh dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không c̣n sử dụng được nữa th́ linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể Vía ngay. Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi c̣n sống, ta có thể nh́n thấy cơi âm một cách dễ dàng."
Giáo sư Allen ngập ngừng:
- "Nhưng có một quan niệm lại cho rằng sau khi chết linh hồn sẽ lên Thiên Đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao?"
Hamoud lắc đầu:
- "Đó là một quan niệm không hợp lư v́ điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện: Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cơi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lư v́ sự tiến hóa phải từ từ chứ không thể đột ngột được, trên thế gian này không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại. Tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết ḿnh, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển giống như một người làm vườn lo trồng hoa và nhổ đi cỏ dại.
Thực ra khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham th́ khi chết họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ điều này sẽ không c̣n được thỏa măn v́ thể xác đă hư thối, tan ră mất rồi. Sau khi chết, t́m về nhà thấy con cháu ăn uống linh đ́nh mà họ th́ không sao ăn được, ḷng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả dược."
- "Như ông đă nói loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó như thế họ có thỏa măn không?"
- "Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc th́ loài ma đói xúm quanh cũng t́m cách rung động theo tư tưởng đó nhưng không làm sao thỏa măn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thỏa măn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, ḷ sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô t́nh mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của chúng nó có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho những người dễ thụ cảm."
- "Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao?"
- "Sự hiện h́nh ở nghĩa địa chỉ là h́nh thể của thể Phách đang tan ră chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối th́ thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan ră theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cơi trần nhưng trong đó có nhiều nguyên tử Dĩ Thái nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực c̣n rơi rớt trong thể xác để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gia nữa, v́ đang tan ră nên thể Phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những h́nh ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ. Người không hiểu gọi đó là ma.
Theo sự hiểu biết của tôi th́ việc Thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất v́ để thể xác tan ră từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy ḿnh không c̣n ǵ quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều."
- "Ma quỷ thường thuộc thành phần ǵ trong xă hội?"
- "Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi c̣n sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cơi âm lâu hơn người chết già v́ c̣n nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ư định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cơi âm xác nhận rằng: Chính cái dục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau."
- "Số phận của những người quân nhân tử trận th́ ra sao?"
- "Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lư tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn v́ cái chết cao đẹp là một bức thang lớn trong cuộc tiến hóa. Họ đă quên ḿnh để chết và sống cho lư tưởng th́ cái chết đó có khác nào những vị Thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lư tưởng và những kẻ giết chóc oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn."
- "Như ông nói th́ người chết vẫn thấy người sống?"
- "Thật ra phải nói như thế này, khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa nhưng người chết vẫn theo dơi mọi sự dễ dàng v́ các giác quan thể vía. Không những thế họ c̣n biết rất rơ tư tưởng, t́nh cảm liên hệ là đằng khác mặc dù họ không c̣n nghe thấy, nh́n thấy như chúng ta. Nhờ đọc được tư tưởng họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả."
- "Như vậy th́ họ ở gần hay ở xa chúng ta?"
- "Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đ́nh, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ư thức hoàn cảnh mới họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đ́nh để sống hẳn ở cơi giới của họ."
- "Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không?"
- "Điều này không có ǵ khó, hăy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết th́ ta không nên quấy rầy, v́ làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát.
Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài th́ nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không c̣n bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các kư ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là "Hồi quang phản chiếu" (Memory Projection) đây là một giây phút hết sức quan trọng v́ nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cơi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể Phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ư thức để linh hồn rút khỏi thể Phách và thể Vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ ở trong. Sự thu xếp này ấn định cơi giới nào vong linh sẽ đến."
- "Ông du hành sang cơi âm thế nào?"
- "Nói như thế không đúng lắm v́ ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cơi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian (Time, Space dimension). Sang cơi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể Vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cơi trần không thấy cơi âm v́ nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cơi âm. Quan niệm về không gian cũng khác v́ đây là cơi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ h́nh ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngay. Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bổng v́ không c̣n đi bằng hai chân như thể xác."
- "Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao?"
- "Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm đa số mọi người thức tỉnh trong cảng giới thứ năm hoặc thứ sáu vốn có rung động không khác cơi trần là bao. Lúc đầu họ c̣n bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo t́nh cảm, dục vọng mà họ hành động. Tôi đă gặp vong linh của một Thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai, ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn v́ vợ con ông vẫn c̣n đó nhưng chả ai để ư đến ông. Họ tin rằng ông đă lên Thiên Đàng v́ họ đă bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đă xác nhận thế nào ông cũng được lên Thiên Đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đă qua đời cũng đến t́m gặp nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ c̣n ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết. Tôi đă gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gây dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận v́ không c̣n ảnh hưởng được ǵ, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp.
Tôi đă gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ t́m ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi t́m cách hiện về dọa nạt những người bén mảng đến gần nơi chôn dấu. Vong linh ghen tuông c̣n khổ sở hơn nữa, họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ t́nh yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm ǵ được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lănh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy th́ cảm thấy bất lực khi không c̣n ảnh hưởng ǵ được nữa, họ hết sức đau khổ.
Đôi lúc tư tưởng oán hờn có thể tạo nên những h́nh tư tưởng có sự sống riêng biệt và có tác dụng mạnh mẽ ở cơi vô h́nh. Cách đây vài năm, một người bạn ở Calcutta cho tôi biết có một con dao cán ngà rất đẹp mà hễ ai cầm lên cũng có ư định giết người. Tôi bèn t́m đến và cầm thử th́ quả nhiên trong người bị kích động lạ thường. Nhờ đă mở giác quan thể Vía nên tôi thấy một vonh linh hung tợn đang giận dữ v́ tôi chống lại y, nhờ các bạn bè cơi âm tôi tiếp xúc được với tư tưởng vong linh đó: Vợ y đă ngoại t́nh với người bạn thân nên y sử dụng con dao này đâm chết cả hai. Sau đó y c̣n đâm chết hai người em vợ và bị một người khác dùng chính con dao đó đâm chết y. Sau khi chết, ḷng oán hận khôn nguôi nên y quanh quẩn bên con dao này và ảnh hưởng đến bất cứ ai sử dụng nó. Nhiều người đă bị y súi dục giết người, y rất thành công cho đến khi gặp tôi. Phải mất một thời gian lâu tôi mới thuyết phục được y, tôi bèn bẻ gẫy con dao đó đem chôn.
Một trường hợp khác tôi gặp một vong linh say rượu bị xe đụng chết. Y rất oán hận nên cứ vẩn vơ nơi ngă tư đường, hướng dẫn những người lái xe cho họ gặp tai nạn. Rất nhiều người bị chết ở đó. Tôi mất nhiều thời gian khuyên giải nên y mới bỏ đi nơi khác. Dĩ nhiên, sớm muộn ǵ các vong linh cũng tỉnh ngộ nhưng việc làm của y là nhưng nguyên nhân xấu sẽ tạo những nghiệp quả mà y sẽ phải trả v́ ở bất cứ cơi nào, luật thiên nhiên cũng không thay đổi.
Trong một trường hợp khác, có hai người bạn rất thân thiết nhưng cùng yêu một cô gái. Để chiếm đoạt cô này, một người đă âm mưu khiến bạn ḿnh bị t́nh nghi có dính dáng vào một tổ chức chính trị, anh này bị bắt và bị thủ tiêu. Người kia chinh phục cô gái nhưng không thành công và ít lâu sau cô này lấy chồng khác. Anh đau khổ bèn tự tử. Thế là cả hai người bạn đều sang cơi bên kia nhưng người bị thủ tiêu không biết ḿnh là nạn nhân của bạn, vẫn mến bạn nên đi t́m gặp. Trái lại, anh kia lúc nào cũng bị lương tâm dằn vặt, thường trốn tránh, ẩn náu. Sự t́m gặp này kéo dài rất lâu khiến người bạn tội lỗi lúc nào cũng đau khổ, hối hận.
Hamoud lắc đầu:
- "Các ông nên biết, ở cơi trần có thể trốn tránh được chứ ở cơi âm làm sao trốn đi đâu? Đây là cơi của tư tưởng chỉ cần nghĩ đến nhau là đă gặp nhau rồi..."
Mọi người im lặng, cảm thấy thấm thía điều vị pháp sư Ai Cập diễn tả. Giáo sư Mortimer lên tiếng:
- "Xin ông giải thích thêm về h́nh tư tưởng..."
- "Khi ta phát ra một tư tưởng th́ ở cơi trung giới một h́nh tư tưởng được tạo ra. Nếu tư tưởng đó có tính cách cá nhân th́ chúng bay vơ vẩn quanh ta, dĩ nhiên khi c̣n sống, ta không ư thức điều này nhưng khi ta chết ta thấy nó rơ ràng. Nhờ thế ta có thể biết tư tưởng của ḿnh tốt đẹp hay xấu xa. Cũng như thế, khi ghen ghét oán hận ai, ta cũng tạo các h́nh tư tưởng bao quanh người đó. V́ khả năng tập trung tư tưởng của con người rất yếu nên h́nh tư tưởng cũng chỉ phất phơ rồi tan biến, không để lại dấu vết. Tuy nhiên, khi đă có thành kiến với ai, ta tạo nên một h́nh tư tưởng có thể sống lâu hơn và tư tưởng này bao quanh kẻ đó. Luật thiên nhiên đă định "Đồng thanh tương ứng" nghĩa là tư tưởng chỉ có tác dụng khi đối tượng có rung động tương tự. Một kẻ xấu xa sẽ trở nên xấu xa hơn, nhưng tư tưởng xấu không thể hại người lương thiện. Do đó, vấn đề kiểm soát tư tưởng, tránh các thành kiến là một vấn đề quan trọng v́ ta có trách nhiệm với tư tưởng của ḿnh.
Tôi đă gặp một thiếu nữ nhan sắc diễm lệ, cô này rất kiêu căng thường quyến rủ các thanh niên háo sắc rồi phụ bạc họ. Nhiều người đă tán gia, bại sản về tay cô, có kẻ đau khổ tự tử. Các tư tưởng giận hờn, oán ghét của nhiều người cấu tạo nên một h́nh tư tưởng hết sức dữ tợn. Khi cô này vừa chết, h́nh tư tưởng này bám cô bén gót, cô càng chạy trốn, nó càng theo đến cùng. Các bạn hăy tưởng tượng một quái vật theo ḿnh như bóng với h́nh th́ sao?"
Hamoud ngưng nói đưa mắt nh́n mọi người. Phái đoàn im lặng nh́n nhau, họ đă nghe nói về cơi âm nhưng chưa ai giải thích rơ rệt, khoa học và cụ thể như vị pháp sư này. Có nên tin hay không? Làm sao kiểm chứng đây? Việc chứng minh bằng chiếc áo len đă làm mọi người kinh ngạc nhưng cả một thế giới vô h́nh lại là một đề tài quá rộng răi, bao quát, vượt khỏi tầm hiểu biết của mọi người. Phải chăng đó chỉ là một sự tưởng tượng hết sức dồi dào và chu đáo? Dù cho Hamoud là một Tiến sĩ, tốt nghiệp Oxford nhưng không có nghĩa ông ta có đủ thẩm quyền để tŕnh bày sự kiện không chứng minh.
Hamoud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người:
- "Nhờ khai mở các giác quan đặc biệt, tôi có thể thấy cơi vô h́nh trực tiếp mà không phải qua bất cứ trung gian nào. Thay v́ nói rằng sách vở này nói thế hoặc tài liệu kia chỉ dẫn vậy. Tôi dám quả quyết rằng điều tŕnh bày là kinh nghiệm mà tôi đă trải qua, đă nghiên cứu trong nhiều năm. Dĩ nhiên, tôi không mong các ông chấp nhận, tôi mong các ông hăy suy nghĩ cẩn thận, hăy t́m hiểu và nếu c̣n thắc mắc hăy đặt vấn đề thảo luận. Tôi mong các ông lấy tinh thần khoa học suy xét, lấy lư luận làm căn bản để cùng nhau đặt lại vấn đề. Sự nghiên cứu không thể giản dị, dễ dàng được mà c̣n rất nhiều khúc mắc, rắc rối nhưng có thế th́ mới có những thích thú..."
Mọi người nh́n nhau, nhà Pháp sư này đă dám đưa một vấn đề trừu tượng như cơi siêu h́nh ra để thảo luận. Giáo sư Allen lên tiếng:
- "Từ trước đến nay, người Âu không bao giờ chấp nhận sự hiện hữu của một thế giới bên kia cửa tử. Họ chỉ có thể nh́n nhận điều ông nói như một "Tin tưởng" nào thôi thay v́ một dữ kiện khoa học có thể kiểm chứng."
Vị pháp sư mỉm cười:
- "Các ông gọi nó là tin tưởng cũng được, thật ra sự hiện hữu về cơi vô h́nh đă được truyền dạy từ lâu trong các giáo điều, kinh điển nhưng nó được nói đến dưới h́nh thức biểu tượng hay ư nghĩa bóng bẩy mà theo thời gian các giáo sĩ thiếu kinh nghiệm tâm linh không thể hiểu thấu đáo. Do đó, họ đă nói sai lạc đi nhiều. Dần dần, những điều này trở nên mê tín dưới ánh sáng khoa học. Đây là một điều hết sức đáng tiếc, khoa học thật ra chỉ là một phần rất nhỏ của Huyền Bí Học đă được truyền bá rộng răi mà thôi. Nếu các ông muốn có một chứng minh cụ thể cũng được, tôi sẵn sàng tiết lộ một ch́a khóa vào cơi âm. Điều tôi sắp tŕnh bầy là căn bản môn H́nh Học Ai Cập hiện đă thất truyền:
Ở cơi trần, tâm thức con người bị giới hạn bởi ba chiều không gian. Thật ra có nhiều chiều nữa mà ta không nh́n thấy. Khối óc của ta chỉ chấp nhận chiều dài, chiều ngang và chiều đứng mà thôi. Dĩ nhiên, mọi sự đi đứng, di chuyển cũng chỉ giới hạn trong ba chiều này. Nếu tôi nói có một chiều đo thứ tư thẳng góc với ba chiều này th́ các ông sẽ không thể tưởng tượng nổi. Nhưng không thấy được đâu có nghĩa là nó không hiện hữu có phải không? Muốn t́m hiểu chiều đo thứ tư này ta cần dùng đến sự so sánh. Thí dụ có một con kiến đang ḅ trên một tờ giấy phẳng. Giả thuyết rằng con kiến không thể rời khỏi tờ giấy này được nên thế giới của nó chỉ là một mặt phẳng giới hạn trong hai bề đo. Dù nó biết suy luận nó cũng không thể quan niệm được bề đo thứ ba tức là bề đứng. Từ không gian ba chiều của chúng ta, ta có thể làm nhiều điều tầm thường mà con kiến cho là một phép lạ thí dụ như ta để một hạt thóc lên tờ giấy. Con kiến không thể hiểu hạt thóc từ đâu xuất hiện v́ giới hạn trong hai bề đo của tờ giấy, nó nghĩ rằng mọi vật phải đến từ tờ giấy chứ không thể ở một cơi nào đó. Nếu con kiến muốn đi từ đầu giấy đến cuối, nó phải ḅ suốt chiều dài tấm giấy. Đối với chúng ta, v́ biết chiều đo thứ ba, ta có thể gấp tờ giấy lại để hai góc tờ giấy chạm vào nhau, con kiến chỉ cần nhúc nhích đă đi đến cuối tờ giấy. Nó không thể hiểu tại sao quăng đường dài bỗng biến mất, dĩ nhiên đối với ta việc này đâu có ǵ lạ. Vấn đề này có thể dùng để diễn tả thuật "Rút đất" của các Lạt Ma Tây Tạng. Một khi đă hiểu chiều đo thứ tư, mọi hiện tượng cơi âm đều có thể giải thích hết sức dễ dàng, khoa học."
Phái đoàn nh́n nhau thán phục vị Pháp sư Ai Cập đă diễn tả một ư niệm phức tạp bằng một thí dụ giản dị, dễ hiểu. Nhưng c̣n bề đo thứ tư?
Hamoud mỉm cười:
- "Các ông đều biết đường thẳng được tạo ra bởi một điểm kéo dài theo một chiều nhất định. Nếu ta di chuyển một cái chấm khoảng 2 thước th́ ta có đường thẳng dài 2 thước. Nếu ta tiếp tục di chuyển chấm ấy một khoảng cách 2 thước nhưng thẳng góc với đường cũ cho đến khi trở về khởi điểm th́ ta sẽ có một h́nh vuông có đúng không? H́nh vuông có thể diễn tả bằng con số 2 b́nh phương theo toán học. Đây là h́nh học mặt phẳng chứ không có ǵ lạ. Nếu ta tiếp tục di chuyển theo chiều đứng, thẳng góc với h́nh vuông cũ th́ ta sẽ có một khối vuông (Cubic). Khối vuông có thể diễn tả bằng con số 2 tam thừa. Tóm lại ta có 3 h́nh: Đường thẳng, h́nh vuông và khối vuông tương ứng với số 2, 2 b́nh phương, 2 tam thừa.
H́nh học không gian ngừng ở đây, không đi xa nữa v́ ta chỉ biết có 3 chiều mà thôi, nhưng toán học cho biết có thể có 2 tứ thừa, 2 lũy thừa năm, 2 lũy thừa sáu và nhiều nữa. Các con số toán học này đều có h́nh tương ứng trên phương diện h́nh học và tương ứng với 2 lũy thừa bốn hay bề đo thứ tư là ch́a khóa vào cơi âm. Khoa H́nh học cổ của Ai Cập không những chứng minh được mà c̣n có các dụng cụ để đo lường chiều thứ tư này. Trở về h́nh học phẳng, ta sử dụng thước kẻ để đo chiều dài. Để đo h́nh vuông ta sử dụng một thước khác gọi là thước vuông v́ loại thước kẻ không thể đo góc vuông được. Cũng thế khi bước sang h́nh học không gian ta không thể dùng thước vuông v́ h́nh vuông theo định nghĩa không có bề đứng, không thể đo h́nh khối được. Nếu di chuyển h́nh khối theo chiều đo thứ tư ta sẽ có h́nh ǵ? Dĩ nhiên ta không tưởng tượng được. H́nh học Ai Cập cho biết nó là một h́nh bốn bề, có 16 góc, 32 cạnh và 24 mặt được giới hạn bởi 8 h́nh khối (H́nh khối chỉ có 6 mặt 12 cạnh và 8 góc). Ngày nào khoa học chứng minh được h́nh này là họ mở cửa vào được chiều đo thứ tư. Toán học cho biết 2 lũy thừa bốn rất dễ chứng minh và từ toán học áp dụng để xây Kim Tự Tháp, đem các tảng đá vạn cân lên cao. Môn học này đă thất truyền trong quá khứ nhưng di tích của nó vẫn được ghi khắc trên những biểu tượng tại Kim Tự Tháp đấy chứ."
Hamoud im lặng như thả hồn vào một kư ức xa xăm rồi nói tiếp:
- "Khi vén màn vào chiều đo thứ tư, sự phát minh khoa học ngày nay chỉ là mảnh vụn, không đáng kể. Con người có thể du lịch khắp không gian và có quyền năng ngoài sự hiểu biết của người hiện tại. Trong thời buổi vàng son, dân Ai Cập đă đi khắp không gian, đến những giải ngân hà xa lạ nhưng tiếc thay sự giao tiếp với cơi âm của chiều đo thứ tư đem lại các hiểm nguy mà họ không biết. Chính v́ thế nền văn minh này đă sụp đổ, biến mất trên mặt địa cầu chỉ v́ thiếu một nền tảng trí tuệ sáng suốt, không biết phân biệt chân giả. Từ ngàn xưa, các bậc trưởng lăo đă nhắn nhủ rằng sự tiến bộ phải song song với trí tuệ và chỉ khi trí tuệ khai mở con người mới đủ khả năng phân biệt hư thực, xé bỏ các mê lầm của vô minh. Tiếc thay các nhà lănh đạo Ai Cập không nhận thức điều này nên mới xảy ra những điều đáng tiếc."
- "Ông muốn nói rằng dân Ai Cập đă tiến bộ như vậy sao?"
- "Dĩ nhiên, khoảng 8 ngàn năm trước họ đă ở những xă hội hơn hẳn những xă hội tân tiến, văn minh nhất bây giờ bằng cớ là ngày nay, đă ai xây nổi Kim Tự Tháp chưa? C̣n nhiều vấn đề thần bí khác mà một ngày nào đó các ông sẽ hiểu.
Này các ông bạn, Ai Cập đă để lại những Kim Tự Tháp hùng vĩ, kiến thức vĩ đại vào mục đích ǵ? Đa số người Âu cho rằng đó là một tàng trữ thi hài những vua Pharaoh, có như vậy chăng? Tại sao triều đại Pharaoh có cả trăm vua chúa mà chỉ có vài vị cho xây Kim Tự Tháp? Nhưng người ta đâu có t́m thấy thi thể vua chúa nào trong Kim Tự Tháp đâu? Hơn nữa, trong Kim Tự Tháp làm ǵ có ám tự hay tranh ảnh nói về một cá nhân ông vua nào đâu? Chỉ có những nấm mồ đào được chôn sâu dưới đất mới có các xác ướp và tranh vẽ thôi, điều này thế nào? Tại sao các nấm mồ trong ḷng đất có khắc kư hiệu, ám tự, h́nh vẽ mà trong Kim Tự Tháp lại trống trơn? Dĩ nhiên quan niệm thông thường không thể hiểu nổi, nếu các ông hiểu chiều đo thứ tư th́ các ông sẽ không nh́n Kim Tự Tháp như một h́nh khối ba chiều."
- "Ông muốn nói là nó c̣n chiều đo nữa hay sao?"
- "Đúng thế nhưng đó là bí mật của Kim Tự Tháp, đây không phải một vấn đề ta có thể dem ra bàn luận trong một thời gian giới hạn. Các ông đang muốn chứng minh về thế giới vô h́nh kia mà. Tôi hy vọng dẫn chứng về Toán học vừa qua sẽ giúp các ông một ch́a khóa, một căn bản mới trong tiến tŕnh nghiên cứu..."
Giáo sư Evans-Wentz rụt rè:
- "Nhưng chúng tôi vẫn chưa có bằng chứng nào rằng sự chết không phải là chấm dứt..."
Hamoud bật cười:
- "Từ bao lâu nay, chết vẫn là một điều mơ hồ, đáng sợ ám ảnh mọi người. Dù ai cũng trước sau phải chết nhưng hầu như tất cả đều cố gắng không nghĩ đến nó. Ngay cả những người già yếu, liệt giường, liệt chiếu, đầy bệnh hoạn đớn đau cũng hăi hùng khi giáp mặt tử thần. Tất cả tựu chung v́ họ không hiểu sự chết, không biết chuẩn bị, không biết đối đầu hay chấp nhận nó. Trong cuộc đời đầy dẫy vô thường, sự chết có thể đến bất cứ lúc nào, thế mà con người cứ lẫn tránh nó như khất nợ vậy. Sự hiểu biết về cơi vô h́nh giúp ta chấp nhận sự thật hiển nhiên này. Hăy đặt câu hỏi nếu sự chết là hết th́ cuộc đời có ư nghĩa ǵ? Tại sao ta lại sinh ra đời, có mặt trên trái đất này? Tại sao có sự khác biệt giữa các cá nhân dù cùng huyết thống, điều kiện sinh sống, có kẻ khôn, người dại, kẻ thông minh tuyệt đỉnh, người ngu xuẩn khù khờ? Từ chối sự chết là từ chối một sự thật tại sao ta cứ phải trốn tránh một sự thật? Tại sao không t́m hiểu nó và chuẩn bị khi nó đến có hơn không?"
- "Phải chuẩn bị như thế nào? Làm sao có thể giải thích cho những người Âu vốn hết sức đa nghi và không chấp nhận những ǵ viễn vông rằng có một đời sống khác bên kia cửa tử"
- "Th́ đó là việc của họ, tin tưởng hay phủ nhận hoàn toàn tùy theo cá nhân, việc ǵ các ông cứ phải thắc mắc về vấn đề giải thích. Điều quan trọng là tự các ông có tin hay không mà thôi. Nếu các ông tin rằng sự chết chỉ là việc cởi bỏ một cái áo cũ, khi c̣n sống ra sao th́ khi chết cũng thế thôi, vấn đề thiên thần trên thiên đường hay ác quỷ dưới địa ngục hoàn toàn vô lư th́ mọi việc sẽ khác hẳn. Nếu nói một cách hết sức khoa học, lư luận th́ tùy theo dục vọng, tư tưởng của con người ra sao mà họ đến những cơi giới tương ứng, ta sẽ thấy rơ rằng con người có toàn quyền định đoạt số phận của họ khi sống cũng như khi chết. Đó không phải là một vinh dự lớn cho loài người hay sao? Nếu ta chấp nhận rằng các dục vọng tư tưởng khi c̣n sống tạo ra sẽ bay vẫn vơ tác động lên vong linh cho đến khi sinh lực chúng hao ṃn, tan ră th́ ta thấy vấn đề chuẩn bị tư tưởng cũng như lối sống hết sức cần thiết, quan trọng. Nếu các tư tưởng này hoàn toàn nhắm về vật chất th́ dĩ nhiên hoàn cảnh cá nhân hết sức bi đát v́ vong linh không c̣n thỏa măn chúng được nữa. Vong linh sẽ đau khổ và sẽ học được bài học về sự chế ngự dục vọng để áp dụng trong một kiếp sống tương lai. Dĩ nhiên khi dục vọng trên tiêu tan hết th́ y mới siêu thoát được.
Nếu trong đời sống hàng ngày, con người không có một đời sống tinh thần th́ khi chết họ sẽ ở một cảnh giới hết sức buồn nản, vô tri bất động rất lâu cho đến khi họ ư thức sự thiếu hoạt động này và có những tâm nguyện hăng hái hơn ở một kiếp khác. Thảm kịch lớn nhất là khi con người chết đột ngột, không chấp nhận rằng ḿnh đă chết nên cố gắng bám lấy sự sống. V́ không chấp nhận rằng ḿnh đă chết nên họ cứ ở nguyên t́nh trạng khi c̣n sống nghĩa là t́nh trạng chuyển tiếp, không có ǵ rơ ràng hết. Hồn ở cơi âm nhưng đầu óc tư tưởng vẫn ở cơi trần, họ cần được hướng dẫn, khuyên bảo.
Hăy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, v́ y không tin ḿnh đă chết nên cứ ở trong tŕnh trạng lúc chết nghĩa là ngộp nước. V́ đầu óc hôn mê nên y không nh́n thấy cơi âm mà giữ nguyên h́nh ảnh cơi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đă cố gắng thuyết phục nhưng nói ǵ y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi nên cũng không sao trở về được. Nhờ các bạn bè cơi vô h́nh, tôi t́m được tên tuổi và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mănh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc ḿnh đă chết và siêu thoát..."
- "Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sao?"
- "Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi v́ nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mănh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cơi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một h́nh thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí quyết khoa "Mật Tông" Tây Tạng."
- "Như ông nói th́ tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao?"
- "Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi th́ tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm."
- "Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi ǵ không?"
- "Một số người tin rằng hạnh phúc vĩnh cửu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng ḿnh được cứu rỗi th́ như được một vé phi cơ lên Thiên Đàng c̣n không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hăi, lo âu vô ích. Nếu một người chết th́nh ĺnh th́ sao? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc th́ sao? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội? Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đă có một đời sống cao đẹp th́ tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù khi chết được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đ́nh nhất. Dù sao, tư tưởng chót trước khi ĺa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử, nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quoại, chết không nhắm mắt được. Theo tôi th́ sự hiểu biết về cơi vô h́nh, sự chuẩn bị cho sự chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng răi nhưng tiếc là ít ai chú ư đến việc này."
- "Vậy theo ông chúng ta cần có thái độ ǵ?"
- "Đối với người Âu Tây, đời sống bắt đầu khi lọt ḷng mẹ và chấm dứt lúc chết đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cơi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một ṿng tṛn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cơi âm và dương, giữa thế giới hữu h́nh và vô h́nh. Trên con đường tiến hóa c̣n hằng hà sa số các chu kỳ, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cơi Thượng giới chuyển kiếp xuống cơi Hạ giới qua cơi Trung giới và sau đó trở về Thượng giới cũng phải qua cơi Trung giới. Phần ở cơi trần chỉ là một phần nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này phần quan trọng ở chỗ ṿng tṛn tiến sâu vào cơi trần và bắt dầu chuyển ngược trở lên đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất mà có ư hướng về tâm linh. Các cổ thư đă vạch ra một đời sống ở cơi trần như sau: 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đ́nh đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh và 25 năm chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm. Đối với người Á châu th́ 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh nhưng người Âu châu lại khác hẳn, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngă, cho sự sống c̣n, cho sự thụ hưởng do đó, đa số mất quân b́nh và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt. Theo ư tôi, chính v́ sự thiếu hiểu biết về cơi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cơi trần. Chính v́ không nh́n rơ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cơi trần đối với toàn kiếp người th́ không ai dồn sức để lo cho 1/3 kiếp sống mà sao lăng các cơi trên. Nếu con người hiểu rằng quăng đời ở cơi trần rất ngắn ngủi đối với trọn kiếp người và đời sống các cơi khác c̣n gần với chân lư, sự thật hơn th́ có thể họ đă hành động khác đi chăng? Có lẽ v́ quá tin tưởng vào giác quan phàm tục nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cơi khác là không có thật..."
- "Nhưng nếu ông cho rằng các cơi kia c̣n gần với sự thật hơn th́ tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cơi trần làm ǵ? Tại sao không rủ nhau đi sang cơi khác có tốt hơn không?"
Hamoud mỉm cười:
- "Tuy cơi trần hư ảo nhưng nó có những lợi ích của nó v́ con người chỉ có thể t́m hiểu, phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cơi trần có các bài học mà ta không t́m thấy ở đâu được. Chính các bậc Chân tiên, Bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cơi trần mà thôi, nhờ học hỏi những bài học này họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động cơi trên."
- "Ông muốn nói sự nhạy cảm thế nào?"
- "Sự mở mang trí tuệ giống như một máy thu thanh (Radio) và các rung động ví như các tần sóng. Một người không hiểu biết ví như máy thu thanh không bắt trúng đài, không thay đổi băng tần. Họ sinh ra sao th́ chết cũng vậy, chả học được điều ǵ v́ như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè. Một người hiểu biết là người biết thay đổi con người của ḿnh để bắt trúng những làn sóng, dĩ nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và con người sẽ bị tràn ngập bởi các làn sóng này cho đến khi họ điều ḥa, phân biệt điều hay, lễ dở để chọn những băng tầng thích hợp. Khi đó họ bắt trúng những đài phát thanh, nghe được điệu nhạc họ muốn. Huyền âm của Thượng Đế lúc nào cũng vang lừng vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để nghe, biết thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao, tế nhị đó."
Mọi người gật đầu thán phục vị pháp sư Ai Cập đă dùng những thí dụ cụ thể để giải thích một điều phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc:
- "Ngoài việc khai mở giác quan để nghiên cứu cơi âm ông c̣n làm ǵ nữa?"
- "Việc nghiên cứu sẽ không có ư nghĩa ǵ nếu ta chỉ quan sát như một khách bàng quang, đứng ngoài nh́n ngắm. Con người cần học hỏi những điều ǵ xảy ra khi họ từ trần để thay đổi, thích hợp với cuộc sống mới, không những cho họ mà c̣n cho những người thân. Càng hiểu biết bên kia cửa Tử họ càng dễ dàng hướng dẫn các vong linh khác."
- "Nói một cách khác ông hay giúp đỡ những vong linh vừa từ trần?"
- "Chính thế, đó là công việc của tôi. Phần lớn người chết thường xúc động và không chấp nhận rằng họ đă chết, họ muốn bám víu lấy cơi trần và trở nên các loài ma vất vưởng. Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho họ rằng ở cơi âm nếu muốn siêu thoát cần thay đổi trọn vẹn lối sống. Việc này dĩ nhiên rất khó v́ các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều người luyến tiếc cơi trần v́ họ có những việc chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được an để siêu thoát. V́ thế sự hiện diện của một người c̣n sống như tôi rất hữu ích, tôi có thể giúp họ hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát..."
- "Công việc này có kết quả ǵ không?"
- "Đây là một việc hết sức khó khăn nên tôi phải kết thân với một số bạn bè bên cơi âm. Nếu vong linh u mê nhất định không nghe th́ tôi phải nhờ những bạn bè, người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ. Thí dụ như một vong linh bị chết trong một trận hỏa hoạn tại Luân-Đôn. Y bị kẹt trong ṭa nhà ba từng, không sao thoát nên chết ngộp bởi khói. Y không tin ḿnh đă chết nên thần thức vẫn vùng vẫy, t́m chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y quá lo sợ chết cháy nên không chịu tin lời tôi. Sau tôi phải nhờ mẹ y đă từ trần nhiều năm trước đến khuyên bảo th́ y mới chấp nhận và siêu thoát."
- "Ông muốn nói rằng thân quyến có thể làm việc đó dù họ chết đă lâu?"
- "Dĩ nhiên, sự liên hệ giữa con người với nhau đâu phải t́nh cờ mà do nhiều duyên nghiệp từ trước. Nếu sợi dây thân ái vẫn c̣n th́ dù qua đời họ vẫn để ư lưu tâm đến những người họ yêu mến nhau. Dù đă siêu thoát lên cảnh giới trên nhưng họ vẫn sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu của họ."
- "Như vậy sau khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích hay sao?"
- "Dĩ nhiên, như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao th́ chết vẫn vậy, đâu có đổi thay ǵ nhiều. Nếu t́nh cảm vẫn c̣n th́ họ vẫn t́m đến gặp nhau là thường. Thật ra nếu ta xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới mới, quang đăng, sáng sủa hơn th́ chúng ta sẽ không có cảm tưởng như xa người quá cố. Sự thật là không có điều ǵ chia cách linh hồn cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động chân thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu phải chỉ xác thân. Xác tuy hư hại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm xúc được t́nh thương của ta. Họ c̣n biết các đau buồn, cảm giác của ta v́ họ đọc được tư tưởng. Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dơi th́ khi ta chết đi, họ sẽ đón tiếp để trấn an ta là đằng khác. Đây là một vấn đề cần được lănh hội cẩn thận v́ khi hiểu biết ta sẽ không c̣n sợ hăi, ta chấp nhận sự chết như một việc hiển nhiên. Bên kia cửa tử cũng như cơi trần, luật thiên nhiên luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng."
- "Làm sao chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta sẽ gặp người thân?"
- "Như tôi đă tŕnh bày, có bảy cảnh ở cơi Trung giới và sự thức tỉnh ở cảnh nào hoàn toàn tùy theo tâm thức con người rung động với nhịp rung của cảnh đó. Con người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh đó hoặc cảnh thấp hơn mà thôi. Đa số những người qua đời đă lâu, thể Vía đă được thanh lọc nên thường sống ở cảnh giới cao hơn, do đó họ có thể tiếp xúc với những người ở cảnh giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ thức tỉnh ở cảnh giới thấp rất ít khi biết đến các cảnh giới cao hơn, những kẻ thức tỉnh ở cảnh thứ bảy hay thứ sáu chỉ muốn t́m về cơi trần mà thôi ít khi ư thức cảnh giới khác. Có nhiều vong linh sau khi đă lên đến cảnh giới cao lại t́m về những cảnh thấp hơn, không phải họ ham mê ǵ cơi này nhưng v́ ḷng thương người, bác ái mà họ muốn giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ, những kẻ lạc lỏng, bơ vơ không ư thức ǵ."
Hamoud im lặng một lúc rồi thong thả:
- "Cứu trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết sức cần thiết v́ người chết th́ nhiều mà người hiểu biết lại chẳng có là bao nhiêu..."
- "Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang năng đặc biệt như ông hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ..."
Hamoud lắc đầu:
- "Không phải khi từ trần mới làm được việc này, khi c̣n sống ta vẫn có thể làm được mà cũng không cần phải khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai biết suy nghĩ đều có thể làm được. Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể Vía của ta được tự do có thể hoạt động bên cơi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một sự giúp đỡ, an ủi nhằm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người không phân biệt th́ điều này sẽ được thực hiện."
- "Chỉ thế thôi ư? Như vậy ai làm chả được."
- "Dĩ nhiên, điều này không nguy hiểm ǵ hết v́ tư tưởng có một sức mạnh thần giao đặc biệt và có một mănh lực phi thường ở cơi âm. Nếu ta tập làm những việc này khi c̣n sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cơi bên kia v́ ta đă quen thuộc với nó rồi. Ta c̣n gặp những người nhờ tư tưởng của ta mà được giúp đỡ là đằng khác, dĩ nhiên họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục làm những công việc này..."
- "Làm sao có thể dễ dàng như thế được?..."
Hamoud mỉm cười:
- "Nghe th́ dễ thật nhưng nó đ̣i hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất việc làm của ta phải bất vụ lợi, vị tha, vô tư v́ cơi âm là cơi tư tưởng. Nếu ta có ư định mưu đồ một việc ǵ, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết thế nào mà lượng được. Thứ hai, đa số các vong linh đều u mê, ngoan cố rất khó thuyết phục v́ các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cơi trần v́ con cháu khóc than, thương tiếc quá họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công việc này đ̣i hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối rối, xúc động. Nhưng khi ta đă phát tâm th́ tư tưởng này sẽ là một khí cụ rất tốt giúp đỡ ta rất nhiều. Theo ư kiến của tôi th́ việc có một kiến thức rộng răi về cơi âm là căn bản đầu tiên..."
Giáo sư Allen lắc đầu:
- "Nếu nói rằng khi ngủ ta qua cơi âm, tại sao tôi không ư thức một tí ǵ cả? Phải có một bằng chứng nào rơ rệt mới tin như vậy được."
- "Các ông nên hiểu về sự cấu tạo của con người: Trong lúc thức tỉnh, thể Vía là cây cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên ngoài do hệ thần kinh giao cảm được thể Vía chuyển vào tâm thức sau đó mới ghi nhận ở khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải không? Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác, nó cần phục hồi sức khỏe nên nằm yên nhưng thể Vía lại khác, nó vẫn hoạt động v́ bằng chứng là đôi khi ngủ say nhưng ta vẫn ư thức mọi việc xảy ra chung quanh có đúng như thế không? Thể Vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, v́ tính chất này nó rất mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục vọng. Các tính xấu như giận hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo thành một lớp vỏ bao trùm lên thể Vía và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính t́nh con người chỉ là một thói quen của tư tưởng. Như tôi đă tŕnh bày, tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều bị thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến t́nh cảm con người. Bằng chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm. Có người tự hỏi tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ, không thể tu tập các pháp môn thiền quán? Ấy v́ thể Vía họ lao chao, muốn động. Họ cần biết cách chủ trị t́nh cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc như thịt cá, rượu các chất kích thích cũng đem vào thể Vía các đối phần nặng trọc. Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này v́ nó rất có hại cho việc tham thiền, quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bảy trung tâm giao điểm sinh lực gọi là Luân Xa, tại đây có một tấm màn cấu tạo bẳng nguyên tử cơi trần để ngăn chặn ảnh hưởng cơi âm. V́ thế, kư ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển sang khối óc vật chất tuy nhiên, đôi khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái ǵ mà không sao nhớ được. Đối với một người b́nh thường th́ luân xa không thức động nên tấm màn này khép chặt nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá hoại tấm màn này khiến nó bị rách và ảnh hưởng cơi âm có thể chuyển qua cơi trần khiến y bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị các loài ma quỷ nhập vào sai khiến."
Giáo sư Allen lên tiếng:
- "Những điều ông tŕnh bày rất lạ lùng, nhưng cũng có lư. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của chúng tôi th́ khoa học không thể chứng minh điều này. Liệu có cách nào khiến chúng tôi cũng khai mở các quang năng để nghiên cứu cơi giới vô h́nh như ông không?"
Hamoud gật đầu:
- "Sự khai mở quyền năng thuộc phạm vi tâm thức, trước khi mở tâm phải tinh luyện các thể đă. Nếu chưa thanh lọc được các thể th́ đừng nói đến khai mở bất cứ một giác quan nào."
- "Vậy ta phải luyện các thể bằng cách nào?"
- "Tinh luyện thể Trí bằng sự suy tư chân chính. Trí tưởng tượng con người là một công cụ sáng tạo hữu hiệu, khi ta suy tư, tưởng tượng ta vô t́nh xây dựng thể Trí. Nếu ta chỉ suy tư những điều tốt lành, cao thượng th́ ta đă luyện trí rồi. Sau thể Trí là thể Vía, thể này chỉ luyện bằng các ham muốn chân chính. Hăy ham mê các điều cao thượng th́ tự khắc thể Vía sẽ phát triển."
- "Ông nói nghe thật dễ dàng. Tư tưởng cao thượng và ham muốn chân chính là những điều trừu tượng, làm sao có thể làm được..."
- "Đa số mọi người quan niệm như thế nên chả khi nào tiến bộ được. Con người muốn quyền năng, giải thoát nhưng chỉ chờ đợi một phép lạ, một tha lực ngoại giới chứ không tự tin rằng ḿnh có khả năng làm những việc đó."
- "Dù tôi muốn thanh lọc các thể th́ cũng phải có một phương pháp, một sự hướng dẫn, một kỹ thuật nào đó chứ nói một cách trừu tượng th́ ai nói chả được."
- "Theo sự hiểu biết của tôi th́ Tôn giáo nào cũng dạy những điều cao đẹp và áp dụng những lời dạy này chả phải một phương pháp, kỹ thuật thanh lọc các thể hay sao?"
- "Như vậy ông theo phương pháp nào? Hăy nói về kinh nghiệm của ông đă..."
Hamoud trầm ngâm rồi gật đầu:
- "Được lắm, tôi được truyền thụ phương pháp này tại một tu viện ở Tây Tạng nên chịu ảnh hưởng Phật Giáo rất nhiều: Thứ nhứt là luyện thể xác, phải biết cách kiểm soát, kiềm chế thể xác hoàn toàn, quy định mọi hoạt động như ăn, uống, ngủ cho thật đúng. Thức ăn được phân làm ba loại: Tĩnh, Động và Điều Hoà, người tập phải tránh đồ ăn "Tĩnh" v́ nó làm thể xác hôn mê, lười biếng, bất động. Các thức ăn có đặc tính "Tĩnh" là các món đang lên men, các thứ đồ khô, các loại rượu. Các món ăn có đặc tính "Động" như thịt, cá thường đem lại các kích thích hăng hái nhất thời, xác chết thú vật gồm nhiều nguyên tử nặng nề bởi các thú tính thấp hèn không thích hợp cho việc tu hành, thanh lọc. Chỉ có các món ăn "Điều Ḥa" như các thứ có khả năng tăng trưởng, chứa nhiều sự sống như ngũ cốc v́ nó sắp đâm mầm, nẩy lộc, các loại trái cây vốn tràn đầy nhựa sống, các loại rau cỏ vốn hấp thụ khí thái dương cần thiết cho một thể xác cường tráng, nhạy cảm.
Sau việc ăn uống c̣n phải thở hít, hô hấp cho đúng cách. Khoa học chứng minh con người sống được là nhờ hơi thở nhưng thật ra đó là nhờ Sinh khí (Prana).
Chính các sinh khí này thấm nhuần khắp cơ thể, mang sự sống đến khắp tế bào. Prana xuất phát từ ánh sáng mặt trời, nó rung động và pha trộn trong không khí. Bằng cách hô hấp thật sâu, thong thả, Prana sẽ thấm vào thần kinh hệ và lưu thông khắp châu thân mang sự sống khắp xác thể. Chính các Prana tích tụ trong hệ thần kinh tạo ra luồng "Nhân điện" một yếu tố quan trọng của sự sống.
Tóm lại, dinh dưỡng đúng cách bằng các món ăn có đặc tính điều ḥa, tập thở hít đúng cách là phương pháp tinh luyện thể xác vô cùng quan trọng. Như các ông thấy, phương pháp này không có ǵ trái với khoa học hiện tại, cách thực hành có thể khác nhau tùy cá nhân, người gọi nó là thể dục, người gọi nó là thiền định điều này không quan trọng v́ căn bản chính chỉ nhằm đem lại một thể xác lành mạnh, cường tráng. Người luyện thể xác cần sống nơi thoáng khí, nhiều ánh sáng mặt trời để đón nhận các sinh lực prana nhằm bổ túc luồng nhân điện. Các món ăn như thịt cá mang lại các rung động thô bạo khiến luồng nhân điện này chạy loạn lên khó kiểm soát gây nên các bệnh tật hoặc phá hoại hệ thần kinh. Các món ăn Tĩnh như rượu làm tê liệt bộ thần
kinh khiến luồng nhân điện bị ngắt quăng không đều ngăn trở các sinh khí prana lưu thông mang sinh lực nuôi thể xác gây nên nhiều hậu quả không tốt.Sau khi thanh lọc thể xác ta bắt đầu luyện đến thể Vía: Thể Vía là trung tâm của t́nh cảm, một khi t́nh cảm trong sạch, vị tha, bác ái đương nhiên các chất thanh nhẹ sẽ được hấp thụ vào và các chất nặng trọc, xấu xa sẽ bị đào thải ra ngoài theo một nguyên lư giống như sự thẩm máu (Osmosis). Khi thể Vía thanh cao nó sẽ rung động với các tư tưởng cao thượng mang tâm thức lên một b́nh điện cao hơn. Khi sự rung động (Vibration) đến một chu kỳ nào đó (In-phase) các giác quan thể vía bắt đầu khai mở và tự nhiên con người sẽ bắt đầu có quyền năng đặc biệt. Nói một cách khoa học hơn, các giác quan thể Vía chỉ hoạt động ở một chu kỳ và chỉ khi thể Vía rung động đúng chu kỳ này nó mới được đánh thức để hoạt động. Thể vía chỉ có thể rung động ở chu kỳ này khi nó được cấu tạo bằng những nguyên tử thật thanh, nhẹ khi những nguyên tử nặng trọc bị khu trục hết, điều này chỉ xảy ra khi con người chỉ có các t́nh cảm cao thượng ḷng bác ái tốt lành bao trùm mọi vật. Đó là bí quyết cách luyện thể Vía.
Khi bảy giác quan của thể vía hoạt động, nó sẽ khai mở một số bí huyệt để luồng hỏa hầu Kundalini thức giấc, khi luồng hỏa hầu này chạy dọc theo xương sống lên đỉnh đầu, nó sẽ thúc đẩy, khai mở thể trí khiến nó khai triển để hợp nhất với chơn thần. Khi thể trí khai triển, mở lớn ra nó sẽ khởi sự tiêu diệt cái phàm ngă ích kỷ của con người để hướng lên các điều thánh thiện. Đây là một giai đoạn vô cùng khó khăn, rất ít ai vượt qua nổi: Danh từ Phật giáo gọi là Phật tánh biểu lộ, danh từ Thiên Chúa Giáo gọi là sự quên ḿnh để ḥa nhập với đấng Cứu Thế, danh từ Ấn Giáo gọi là sự hợp nhất với Chân Ngă. Nói một cách giản dị th́ đây là lúc trí tuệ quy kết các tư tưởng và hoạt động về t́nh huynh đệ, bác ái nhu thuận, từ bi, trí tuệ, vị tha, hỷ xả để kết tinh thành chân ngă. Khi phàm ngă hoàn toàn bị hủy diệt, các thể cũng hoàn toàn được thanh lọc th́ không c̣n sự phân biệt giữa ta và tha nhân, giữa chủ thể và đối tượng mà tất cả đều là một. Thể trí không c̣n tính cách cá nhân mà đă thành "Đại Trí" hay trí tuệ "Bát nhă". Tâm thức cũng không c̣n là tâm cá nhân mà thành tâm thức "Bồ Đề" ḥa hợp hoàn toàn với tâm thức vũ trụ. Cả tâm lẫn trí mở rộng đón nhận ánh sáng chân lư mà không c̣n phải học hỏi, lư luận ǵ nữa. Đây chính là giai đoạn giác ngộ của người tu. Họ trở nên một đấng siêu nhân, một vị Tổ, một vị Thánh..."