Tranh Sơn Thủy và Giá Trị Văn Hóa, Tư Tưởng Phương Đông
Trung Hoa là đất nước có nền văn hoá phát triển vô cùng đồ sộ cả về bề dày lịch sử lẫn chiều sâu. Trong đó, hội hoạ đạt nhiều thành công rực rỡ. Hội hoạ trong con mắt người Trung Hoa là sự tổng hoà quan niệm về vũ trụ và con người trong đó h́nh vẽ là những biểu hiện cao cả về khả năng sáng tạo. Thành công rực rỡ của hội hoạ cổ Trung Hoa phải nói tới mảng tranh sơn thuỷ.
Ở châu Âu thế kỷ XVII, cùng với Claude Lorrain tranh phong cảnh mới ra đời với tư cách là thể loại độc lập. Trong khi đó ở Trung Hoa, người ta quan tâm đến thể loại tranh phong cảnh sớm hơn và sáng tạo ra loại tranh sơn thuỷ từ thế kỷ VII. Tranh sơn thuỷ được thâm nhập sâu vào quan niệm thẩm mỹ của mọi tầng lớp trong xă hội Trung Hoa bất kể thời kỳ nào và ḷng yêu thiên nhiên phổ cập ở mọi người dân Trung Hoa.
Chùa trên đỉnh núi – Lư Thành (Li Cheng)
Khác với tranh phong cảnh của người châu Âu, tranh sơn thuỷ không chỉ là những h́nh vẽ mang tính sao chép thiên nhiên mà là những sáng tạo. Ở đây các hiện tượng thiên nhiên trở thành những biểu tượng của tinh thần. Chính v́ vậy nói đến tranh sơn thuỷ Trung Hoa là nói đến tư tưởng, lối sống, quan điểm nhân sinh, sự suy nghĩ và tinh thần của người nghệ sỹ trước tạo vật. Tranh sơn thuỷ không chỉ dừng lại ở một bức tranh phong cảnh đẹp mà người xem c̣n thưởng thức cả phần tư tưởng của tranh. Nó bao quát những quan niệm vũ trụ, biểu thị nguyên lư sống của tạo vật.
Người Trung Hoa từ xưa không có tư tưởng cho ḿnh với vũ trụ, thiên nhiên có ǵ ngăn cách xa lạ nên người nghệ sỹ thường mượn cảnh nói t́nh, lấy núi sông trời đất để biểu hiện tư tưởng của ḿnh. V́ vậy tranh phong cảnh Trung Hoa mở ra cho chúng ta một thế giới khác – thế giới đầy mơ mộng nhưng được xây dựng bằng trí tuệ, không vay mượn hiện thực mà là những điều được gợi lên từ cái nh́n bên trong của người nghệ sỹ.
Người phương Tây thường chú trọng và đề cao kinh nghiệm, ư chí, khả năng của ḿnh để tiếp cận chân lư. Họ nỗ lực khám phá, thu hoạch, chiếm đoạt cái vũ trụ khách quan, cái tự nhiên và xă hội bờn ngoài. Tuy nhiên, họ lại tỏ ra đối lập lạnh nhạt và ngờ vực cái vũ trụ khách quan đó. Người phương Tây vẽ tranh phong cảnh với một cái nh́n phân tích bằng thị giác và phản ánh nó bằng các yếu tố của nghệ thuật hội hoạ như đường nét, h́nh khối, màu sắc. Họ tả khoảng cách và tạo không gian xa gần của cảnh vật bằng cách vẽ mọi vật ở càng xa th́ càng nhỏ vút về một điểm tụ ở đường chân trời, các sự vật chịu sự chi phối của ánh sáng và vờn nổi khối theo quy luật ánh sáng. Giá trị của nó ở chỗ làm cho người xem như được nh́n thấy cảnh thực và có sự rung động theo cảnh thực.
Người nghệ sỹ Trung Hoa coi tâm hồn của một người là tâm hồn của trời đất. Cái lư của một vật là cái lư chung cho cả vạn vật. Vận chuyển của một hơi thở cũng như vận chuyển của một ngày. V́ thế tranh sơn thuỷ không chỉ là cảnh sắc khách quan mà chính là tâm hồn, lối tư duy của tác giả. Xem tranh là qua h́nh tượng, cách biểu hiện khí chất khi biểu tả để thấu hiểu chính tác giả. Trong đó, nó chứa đựng cả sự gửi gắm t́nh cảm, tâm hồn, tư tưởng của người vẽ. Cũng chính v́ vậy tranh sơn thuỷ không lấy lối vẽ phân tích theo cái nh́n tinh tế mô tả chi tiết cho giống với thực thu nhận qua thị giác làm trọng mà thiên về tả ư, lưu lại những h́nh ảnh, giữ lại cái bóng của sự vật. Họ dường như không nh́n thấy cảnh thật để sao chép nó, họ vẽ những cái tồn tại trong t́nh cảm của ḿnh, do họ cảm nhận được gây cho người xem cảm giác rất xa lạ mà lại như quen thuộc tự bao giờ. Những cảm xúc đó được chuyển vào nét bút sinh động, cái nồng ấm, sống động vào khí vận của đường bút, cái cao siêu, cái lưu chuyển qua sự tương quan của thực hư, của ư tưởng trong biểu hiện. Các nghệ sỹ Trung Hoa vẽ tranh sơn thuỷ nhằm gửi gắm tâm trạng trước cuộc đời của ḿnh vào trong đó. Cảnh chỉ là một đối tượng để tác giả mượn cớ nói về cái tâm hồn của ḿnh một cách tế nhị. Giá trị của nó không chỉ ở cảnh sắc của tranh mà thông qua bức tranh c̣n thấy cả tâm hồn của tác giả.
Tranh sơn thuỷ tồn tại với bề dày lịch sử, trải qua nhiều triều đại phong kiến, tuy có những giai đoạn thăng trầm nhưng phải nói loại tranh sơn thuỷ đă có một mạch đập xuyên suốt lịch sử tồn tại chưa hề gián đoạn kể từ Hàn – Tuỳ – Đường – Tống – Nguyên – Minh – Thanh vẫn tiếp tục kế thừa và phát huy cao độ, cho nên tranh sơn thuỷ là một loại h́nh hội hoạ dân tộc nằm trong hệ thống tranh quốc hoa được hun đúc từ truyền thống văn hoá, tư tưởng phương Đông đặc sắc. Đặc điểm nghệ thuật của thể loại tranh này thường được tái tạo qua phương pháp viễn thị chủ quan và sáng tạo nghệ thuật bằng con mắt nội tâm đă trở thành bản sắc dân tộc có ảnh hưởng lớn đến nhiều dân tộc ở phương Đông. Đặc biệt ở nước ta nhất là thể loại tranh thuỷ mắc (đơn sắc) đă có nhiều hoạ sỹ sử dụng mực nho trong tranh rất điêu luyện như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tiến Chung, Sỹ Ngọc … Các thế hệ hoạ sỹ trẻ cũng chịu ảnh hưởng và tiếp thu lối vẽ trong tranh lụa, giấy dó. Và trong sáng tác có cách nh́n thiên về ư tưởng nội tâm, khai thác những t́nh cảm trong tâm hồn, từ đó xuất hiện những h́nh ảnh cụ thể và h́nh ảnh trừu tượng gắn bó chặt chẽ. Người xem tranh sẽ thấy tác phẩm đă vượt qua tính chân thực của sự vật khách quan mà đạt đến một hàm nghĩa trừu tượng, đồng thời tạo một không gian cho người xem suy tư và liên tưởng. Ngay trong trường học sinh viên cũng được học tập, vẽ mực nho, thuốc nước nhất là trong việc đi thực tập chuyên môn ghi chép tài liệu.
Bước ngoặt quan trọng đă đưa thể loại tranh phong cảnh tách khỏi tranh nhân vật vào đời Hàn tới đời Đường th́ hoàn chỉnh cả về bút pháp lẫn ư tưởng sáng tạo. Đổng Kỳ Xương (đời Minh), hoạ sỹ – nhà phê b́nh nghệ thuật đă vạch ra những nét lớn lịch sử của hội hoạ Trung Hoa, phân định trường phái tranh sơn thuỷ Bắc Tông và Nam Tông. Ông kính trọng và thừa nhận Lư Tư Huấn và Vương Duy là những người khái quát ra thể loại “tranh lục sơn thuỷ” và “thuỷ mặc sơn thuỷ”. Tranh của phái Lư theo xu hướng hiện thực lư tưởng gần gũi với cuộc sống theo thể loại “thanh lục sơn thuỷ”, màu sắc nhiều tầng lớp rực rỡ (phái Bắc Tông). C̣n tranh Vương Duy (phỏi Nam Tông (theo hướng thoát ly thực tế, t́m về tự nhiên, nói đến tự nhiên một cách an tịnh. Ông sáng lập ra loại tranh đen trắng (thuỷ mặc) đă trở thành bản sắc của quốc hoạ Trung Hoa.
Xa giá Đường Minh Hoàng – Lư Tư Huấn(Li zi xun)
Sông núi tuyết tan – Vương Duy (Wang Wei)
Bên cạnh đó sự ảnh hưởng và tác động qua lại của các hệ tư tưởng Khổng giáo, Lăo giáo, Phật giáo đến tranh sơn thuỷ đă đưa thể loại tranh này có giá trị nghệ thuật và tầm tư tưởng lớn, trở thành cái đẹp thanh cao, bí ẩn mà người đời luôn luôn nghiên cứu t́m ṭi và học tập. Tranh sơn thuỷ không chỉ là một bức cảnh đẹp của thế giới vật chất mà chính là cái đẹp ở thái độ tâm lư của tác giả khi tiếp xúc với thế giới sự vật hiện tượng. Dù chỉ là sỏi đá, là những bụi cây cằn cỗi, mộc mạc nhưng với một thái độ đẹp, một tâm lư đẹp người ta đă chuyển hoá nó thành những bức tranh đậm t́nh người. Chỉ với một tờ giấy, một mảnh lụa mỏng, một chút mực và một cây bút lông người nghệ sỹ Trung Hoa đă khéo dựng một nền nghệ thuật hội hoạ sơn thuỷ rất độc đáo mang tính chất dân tộc riêng của Trung Hoa có những thành tựu đóng góp to lớn dùng cái đẹp tượng trưng qua bức tranh đă làm cảm hoá ḷng người. Tất nhiên mọi thứ đều có những biến động nhưng tranh sơn thuỷ cũng có một thời của nó.
Ths. Nguyễn Thị Trang Ngà