Gói bánh ăn Tết
*
Nhà tôi không thuộc loại tiểu thư đài các, nhưng mẹ mất sớm nên được bà nội nuông chiều, có kế mẫu lại c̣n kẻ ăn người làm nên không phải làm lụng việc nhà. Cuộc đổi đời ở miền Nam, mọi người đều làm chủ, cho nên nhà tôi cũng cho người làm về quê, từ đó nhà tôi mới phải đụng tới nồi niêu soon chảo, phải nấu món nọ, xào món kia cho gia đ́nh dùng bửa, tháng nọ năm kia rồi cũng nấu được những món ngon, món lạ.
Một hôm, các con muốn ăn chè xôi nước, nhà tôi không biết nấu, tôi phải nhớ xem ngày xưa ở nhà khi tôi mới mười hai, mười ba tuổi, mẹ tôi, cô tôi, chị tôi đă nấu như thế nào. Rồi tôi ra chợ mua bột nếp, đậu xanh cà, đường thốt nốt, một nhánh gừng, hành lá và mè, đủ vật liệu, tôi nấu một nồi chè xôi nước đầu tiên không đến nỗi tệ.
Nhân đậu xanh, tôi thêm một chút dầu ăn, một ít hành lá xắt nhỏ, cộng hành đập dập, nêm muối và dằn một chút đường, nấu nước đường th́ bỏ thêm vào vài lát gừng cho thơm, dằn một chút muối cho đậm đà.
Người ta thường hay nói “Ba ch́m, bảy nổi, chín linh đinh”, đó là ám chỉ t́nh trạng của những viên chè xôi nước, khi chúng ta bỏ vào nồi đường đang sôi, những viên chè mới bỏ vào ch́m xuống đáy nồi, viên nào chín sẽ nổi lên. Khi múc chè ra chén, răi lên một ít mè rang vàng đă giả nát.
Người ta cũng thường nói: “Thừa thắng xông lên”, nên gần Tết năm đó - chừng năm 1979 hay 1980 – nhà tôi cho biết các con muốn ăn bánh Tét, sẵn Tết gói một ít đ̣n, trước cúng, sau ăn. Do vậy, chờ đến hăm bảy Tết, tôi ra chợ mua năm lít nếp, một lít đậu xanh cà, một lon đậu đen, mấy xắp lá chuối, một bó cộng lác, một năi chuối xiêm, hai trái dừa khô, vài tép hành lá.
Đêm ấy đem ngâm nếp, đậu xanh, đậu đen. Sáng hôm sau, nếp đem vúc để cho ráo nước, nấu chin đậu đen, dừa đem nạo rồi vắt nước cốt trộn với nếp và đậu đen xào chung cho nước dừa thấm hết vào nếp, lá chuối lau sạch hai mặt, dây lác nhúng nước cho mềm.
Đậu xanh đải vỏ, đổ nước vừa phải để nấu nhưn cũng thêm chút dầu, hành lá xắt nhỏ, cọng hành đập dập, trộn vào nồi đậu, nêm chút muối, khi đậu gần chín quậy đều tay cho nhừ, khi đậu chín, lúc c̣n đang nóng ấm, nắn thành những cục nhưn.
Khi gói bánh, lá ngoài để trước chiều dài dọc theo thân bánh, lớp lá trong để nằm ngang, đổ một lớp nếp đă trộn xuống lá, dầy chừng nửa ngón tay, dài hơn chiều dài của nhưn một chút, đặt nhưn lên lại đổ thêm một lớp nếp nửa, sau đó cuốn lá lại, rồi bẻ một đầu lá gập lại, lật đ̣n bánh đứng lên với đầu lá gập nằm dưới, trong khi hai tay vẫn nắm chặt đ̣n bánh, kiểm soát đầu trên xem nếp có phủ nhân không, nếu không cho thêm nếp, xong gập đầu này lại rồi trở đầu bánh để kiểm xem đầu kia nhưn có được nếp phủ kín chưa? Khi biết nhân đă được nếp phủ kín chung quanh, người ta cột hai sợi dây dọc theo thân bánh, để cho đ̣n bánh không bị bung ra rồi tiến hành cột dây theo chiều ngang cách khoảng chừng 2 phân.
Bánh cột dây càng chặt, nấu càng lâu chín nhưng để lâu thiu, ngược lại cột dây nhẹ tay, bánh nấu mau chín, để mau thiu. Có người nấu bánh tét để hai mưoi ngày ăn vẫn ngon.
Với chừng ấy vật liệu, tôi gói được gần ba mươi đ̣n bánh tét nhưn chuối, nhưn đậu chay v́ trong nhân đậu không có thịt. Tôi cũng gói một đ̣n bánh tét không nhưn, nhỏ bằng cổ tay, thường gọi là bánh chay, đ̣n bánh này dùng để thử cho biết bánh chin hay chưa trong lúc nấu.
Bánh Tét
Với số đ̣n bánh Tét như vậy, thường ngày đó tôi xin nghỉ, sáng dậy từ 6 giờ nấu nướng, gói cho đến 1 hay 2 giờ trưa mới xong, lại phải đi mượn cái thùng nấu bánh của hàng xóm.
Cô tôi bảo: “- Lúc xếp bánh tét vào nồi nấu, ai nặng bóng vía nh́n, nồi bánh tét nấu hoài không chín”, người chú họ, anh em bạn d́ với cô tôi không tin, nói với cô tôi: “ - Chị nói tôi không tin, để hôm nào nhà nấu bánh tét, tôi đứng nh́n coi có đúng như lời chị nói không ?”. Đến khi nhà có đám giỗ, chờ lúc thím xếp bánh vào nồi, chú ấy đứng nh́n, quả thật nồi bánh nấu hoài không chín, nghĩa là ăn bị sừng sực, chớ không được mềm dẽo như những lần khác, chú ấy kết luận: “- Chị nói, bây giờ tôi mới tin, có những cái ḿnh không tin không được!”
Tôi thường khởi sự nấu bánh tét từ 4 hay 5 giờ chiều, cho đến mười một, mười hai giờ đêm mới xong, khi nồi bánh đă chín, bánh vớt ra phải treo lên ngay cho nước không c̣n đọng trong đ̣n bánh, đ̣n bánh khô cũng là yếu tố lâu thiu.
Năm đầu tiên, không kinh nghiệm hầu hết những đ̣n bánh tét của tôi đều bị bung đầu sau khi nấu chín, t́m hiểu nguyên do, từ năm sau tôi phải để thêm mỗi đầu bánh một miếng lá chận, miếng lá nầy ngang chừng 3 phân đặt nằm thẳng góc với chiều gập lá ở đầu bánh, nhờ đó đ̣n bánh không bị bung ở đầu nữa.
Một lần gói bánh, có chị tôi ở quê lên chơi, thấy tôi định vắt nước cốt dừa, chị tôi cho biết không cần vắt nước cốt, lấy dừa nạo trộn vào nếp, khi nấu chín dừa tan lẫn vào bánh không hề thấy xác, ăn bánh lại c̣n béo hơn nữa.
Khi tôi gói bánh chuối, chị tôi lại dạy thêm, xẻ dọc trái chuối một đường, cắt miếng đường thẻ bằng đầu đủ, dài chừng lóng tay, nhét đường hai ba miếng theo đường xẻ, khi nấu đường sẽ tan vào chuối, làm cho nhưn chuối có màu đỏ tươi, ngọt, nếu không làm vậy dù chuối chính rục, nhưn chuối cũng hơi tái, không được ngọt.
Cái ǵ cũng vậy, “không thầy đố mầy làm nên”, khi được chị tôi chỉ thêm, từ đó hàng năm Tết ở Việt Nam, tôi đều nấu một nồi bánh khá ngon, có khi đến 60 đ̣n vừa ăn, vừa biếu Tết.
Bánh Ú
Ngày nay sang đây có khác, đi làm quanh năm, có ngày giờ đâu để nấu một nồi bánh dù chỉ mươi, mười lăm đ̣n, dù cho ngày nay đậu xanh đă đải vơ sẵn, đậu đen nấu sẵn trong lon, nước cốt dừa hộp, dây nylon. Chợ bán 5 hay 10 đồng một đ̣n bánh Tét, mua có khi c̣n giúp được quỹ của Chùa, góp phần công đức, khỏi gói. Tuy nhiên, dù cho vật liệu giống nhau, nhưng mỗi người nấu theo khẩu vị riêng phụ thuộc vào nêm, nếm. Cho nên các con tôi chỉ thích bánh do nhà nấu, nếp có trộn đậu đen, có dừa béo.
Bánh Tét có nhân chuối, nhân đậu, nhân ngọt. Nhân đậu thường có thịt heo trong nhân, thông thường người ta để đậu xanh sống, sau khi trải một lớp nếp, rồi trải lên lớp đậu xanh, để nhân mỡ heo đă ướp muối, sau đó lại trải lên lớp đậu xanh, xong lại trải lên trên lớp nếp cuối cùng che kín nhân rồi túm lá lại để gói bánh. C̣n nhân ngọt, nấu đậu xanh với đường sắc hay đường thẻ nên nhân có màu nâu của đường.
Tôi tự hỏi, Tổ tiên người Việt ta, ngày Tết gói bánh Chưng cúng ông bà theo tục truyền, tại sao người Nam lại gói bánh Tét, người Miên cũng có bánh Tét, vậy người Miên chịu ảnh hưởng của người miền Nam hay ngược lại? Người Bắc mặc váy, người Chiêm Thành, người Miên, người Thượng mặc Xà-rông, người Nam mặc quần hai ống? Những khác biệt ấy không phải nhỏ, ngày Tết có th́ giờ chúng ta thử t́m hiểu xem, v́ sao miền Nam lại có văn hóa khác biệt với chiều dài lịch sử mới chừng 300 năm của hơn bốn ngh́n năm văn hiến của người Việt Nam.
Bánh Chưng
V́ không có th́ giờ gói bánh ăn Tết, tôi vẫn nhớ mỗi năm khi c̣n ở Sàig̣n nấu một thùng bánh Tét, nhà nọ nấu, nhà kia nấu, bên ánh lửa bập bùng, ḷng rộn lên niềm vui đón Tết, đôi khi có tiếng pháo trộm nổ lẻ loi, nhắc người ta “mau lên! Tết đến gần lắm rồi!” Tết đến tuổi thơ ham vui, người già mừng con cháu về đoàn tụ, lễ Tổ tiên, chúc thọ ông bà, ăn uống vui vẻ, tráng miệng với bánh phồng, bánh Tét, chẳng những là hương vị của Tết mà c̣n là món ăn cổ truyền gắn liền với phong tục Việt Nam ta.
25 Tết Canh Dần