Thế sự
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
*
Hồi đó ở trên rừng Cà-Tum, để quên năm, tháng gian khổ, tôi có nhờ người nhà khi thăm nuôi mang theo quyển Kim Túy T́nh Từ của Nguyễn Du, đây là một bản Kim Vân Kiều in trong Nam vào đầu thiên niên kỷ 20. Mấy ngày Tết, anh em mượn quyển sách ấy để bói Kiều, tôi c̣n nhớ trường hợp của nhà thơ Huỳnh Hữu Ủy và của tôi khá đúng.
Một người bạn khác, bác Phạm Ngọc Quỳnh nhờ người nhà mang lên một quyển sách Hán Văn, để “văn ôn vơ luyện”, trong trại chỉ có bác và tôi có thân t́nh với nhau, v́ cùng Đội từ Trăng Lớn, chuyển lên rừng cũng ở chung B (Trung đội), nên tôi cũng thường mượn quyển Hán Văn của bác để đọc.
Một
hôm đọc đến bài Thạch Hào Lại của Đỗ Phủ:
石 壕 吏
杜 甫
暮 頭 石 壕 村
Mộ đầu Thạch Hào thôn
有 吏 夜 捉 人
Hữu lại dạ tróc nhân
老 翁 踰 牆 走
Lăo ông du tường tẩu
老 婦 出 門 迎
Lăo phụ xuất môn nghinh
吏 呼 一 何 怒
Lại hô nhất hà nộ
婦 啼 一 何 苦
Phụ đề nhất hà khổ
聽 婦 前 致 辭
Thính phụ tiền trí từ
三 男 鄴 城 戍
Tam nam Nghiệp Thành thú
一 男 附 書 至
Nhất nam phụ thư chí
二 男 新 戰 死
Nhị nam tân chiến tử
存 者 且 偷 生
Tồn giả thả thâu sinh
死 者 長 已 矣
Tử giả trường dĩ hỷ
室 中 更 無 人
Thất trung cánh vô nhân
惟 有 乳 下 孫
Duy hữu nhũ hạ tôn
孫 有 母 未 去
Tôn hữu mẫu vị khứ
出 入 無 完 裙
Xuất nhập vô hoàn quần
老 嫗 力 雖 衰
Lăo ẩu lực tuy suy
請 從 吏 夜 歸
Thỉnh ṭng lại dạ quy
急 應 河 陽 役
Cấp ứng Hà Dương dịch
猶 得 備 晨 炊
Do đắc bị thần xuy
夜 久 語 聲 絕
Dạ cửu ngữ thanh tuyệt
如 聞 泣 幽 咽
Như văn khấp u yết
天 明 登 前 途
Thiên minh đăng tiền đồ
獨 與 老 翁 別
Độc dữ lăo ông biệt
Trần Trọng Kim đă dịch:
Người Lính Xóm Thạch Hào
Chiều hôm nghỉ xóm Thạch Hào,
Ban đêm có lính xôn xao bắt người.
Treo tường, ông lăo trốn rồi,
Vội vàng, bà lăo đón mời ngoài hiên.
Lính la dữ dội huyên thiên,
Mụ già kể lễ nổi phiền biết bao!
Lắng nghe mụ nói t́nh đầu:
“Ba con đi lính ở đâu Nghiệp Thành.
Được thư một đứa tỏ t́nh,
Chiến trường hai đứa giao chinh bỏ ḿnh.
Kẻ c̣n là tạm thâu sinh,
Kể chi kẻ khuất đă đành biệt hơi.
Trong nhà nào có một ai,
Có thằng cháu nhỏ chưa rời vú ra.
Quẩn con mẹ nó chưa xa,
Áo quần rách rưới vào ra có ǵ.
Già này dù sức đă suy,
Cũng xin theo lính cùng về đêm nay.
Hà dương phục dịch gấp ngay,
Việc quan thổi nấu hằng ngày cũng xuôi »
Canh khuya tiếng nói im rồi,
C̣n nghe nức nở, tiếng người khóc thương.
Sáng ra khách phải lên đường,
Chỉ cùng ông lăo vội vàng chia tay.
Trong trại, nghe những nguời thăm nuôi kể lại: Từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam, bắt thanh niên đi lính, gọi là đi nghĩa vụ, chiến trường Tây Nam chống trả bọn Pôn Pốt, nhiều lính miền Nam bỏ ngũ. Do đo, nhiều thanh niên bị gọi đi nghĩa vụ liền t́m cách trốn, cũng như thanh niên trốn quân dịch ngày trước, nhưng cha mẹ của thanh niên nào trốn nghĩa vụ, bị nhà cầm quyền mời đến xă họp, rồi để cho họ ngồi ngoài sân phơi nắng, có chỗ không cho tiếp tế cơm nước, một h́nh phạt mà con làm, bắt cha mẹ chịu. Tin ấy, với bài Thạch Hào Lại của Đỗ Phủ kia, làm cho tôi xúc cảm nên dịch bài thơ trên.
Dịch xong, tôi ghi vào trong quyển sổ tay là quyển sổ mà tôi dung để ghi công tác hàng ngày, v́ giấy khan hiếm, sổ tay ấy cũng chỉ là giấy tập học tṛ xé ra từng tờ, xếp đôi lại cho nhỏ, rồi lấy kim chỉ may ở gáy, thành sổ tay, trước tiên viết bằng bút ch́, sau đó lại viết bút mực hay bút bi chồng lên.
Ngày ra trại, ai cũng vậy, có chi cho được đều cho lại bạn bè như một cái dao đi rừng, một lon Guigoz, một ít đường, bánh … những thứ khác, riêng tư sẽ được mang về, cho nên tôi tin rằng ḿnh đă mang quyển sổ tay về, nhưng từ năm ra trại 1977 đến nay, tôi nhớ chưa từng đọc lại bài thơ ḿnh dịch, đôi lúc tôi cũng t́m kiếm quyển sổ tay nhưng lại không gặp.
Một đêm, tôi t́m bài thơ Tiết Phụ Ngâm của Trương Tịch, tôi nhớ có trong tập Đường Thi của Trần Trọng Kim, tôi t́m khắp năm kệ sách vẫn không thấy, lại thấy một chồng sách cũ, lần lượt lấy ra xem, trong đó có một tập sách mỏng tựa Kỷ niệm Phương danh Pétrus Trương Vĩnh Kư Đại văn sĩ Nam kỳ (1837-1898), quyển Nho Phong của Nguyễn Tường Tam in lần thứ nhất năm 1926, quyển Chinh Phụ Ngâm của Cao Đ́nh Nam in năm 1929, quyển Giấc Mộng Con của Tản Đà in năm 1932, quyển Thú Chơi Sách của Vương Hồng Sễn in năm 1960, quyển Ngồi Tù Khám Lớn của Phan Văn Hùm in năm 1957, quyển Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam in năm 1962 và dưới cùng, mấy cuốn sách Luân Lư Giáo Khoa Thư của Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đ́nh Phúc, Đỗ Thận lóp Đồng Ấu MORAL (Cours enfantin) in lần thứ năm 1929, Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng LECTURE (Cours Élémentaire), sách đă quá cũ rách mất vài trang, lẫn lộn trong mấy cuốn Giáo Khoa Thư đó, là cuốn sổ tay trong “Trại học tập cải tạo Cà Tum” của tôi.
Cầm trong tay, tôi rất mừng chẳng khác nào gặp lại cố nhân, v́ “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, nhưng cũng không khỏi bùi ngùi nhớ lại những ngày khổ cực đắng cay của cuộc đời, sổ tay lâu ngày giấy hoen ố, mực phai, tôi lật từng trang chỗ viết ch́, chỗ mực xanh, chỗ mực đỏ, có trang đọc được, cũng có trang không thể đọc, nhưng tôi mừng quá v́ t́m thấy bản dịch bài thơ của Đỗ Phủ, đọc rơ nhờ viết bút bi xanh.
Chiều hôm khách trú Thạch Hào
Đến đêm bọn lính ồn ào bắt dân
Vượt tường, ông lăo thoát thân
Để bà ra ngỏ một thân đón chào
Một hai chúng nạt ồn ào
Một điều bà lăo kêu gào khổ thân
Trước nghe bà kể dần dần
“Ba trai đi lính giữ chân Nghiệp Thành
Một trai thư gửi chẳng lành
Hai trai mới bị chiến tranh ĺa đời
Đứa c̣n thừa sống chơi vơi
Cả hai đứa mất chuyện đời cũng phai
Trong nhà lại chẳng có ai
Duy c̣n cháu nhỏ hàng ngày sữa nuôi
Mẹ cháu dứt sữa nào xuôi
Ra vào quần áo được tươi tốt ǵ
Già này tuy sức đă suy
Xin cùng mấy chú đêm đi theo về
Hà Lương cấp dịch trọn bề
V́ c̣n buổi sáng được nghề nấu ăn
Đêm trường im bặt nói năng,
Như nghe ấm ức khóc than kiếp người
Rạng ngày khăn gói về xuôi,
Chỉ cùng ông lăo ngậm ngùi chia tay.
Huỳnh Ái Tông
28-5-1977
Thời nào cũng vậy, chiến tranh gây ra biết bao đau thương, kẻ chết, người tật nguyền, vợ góa, con côi, mẹ cha sống những ngày c̣n lại trong nỗi niềm thương nhớ không nguôi. Muốn tránh được chiến tranh, nhân loại cần tránh tranh danh, đoạt lợi. Nhưng biết đến bao giờ mới đạt được điều này !
Louisville, ngày 22-2-2008