Trường Tôi ( 3 )
 

 Đại Học Vạn Hạnh
 

Huỳnh Ái Tông

Thượng Tọa Viện Trưởng Thích Minh Châu phát bằng cho Sinh viên năm 1973

Sau khi vào học Cao Đẳng Sư Phạm, một tuần có đến 28 giờ thực hành, trên 10 giờ học Toán, Sinh ngữ … nên c̣n nhiều th́ giờ rănh, lúc đó Viện Đại Học Vạn Hạnh mới mở, tôi rũ vài bạn học cùng lớp ghi danh theo học tại Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, mặc dù tôi biết có Phân Khoa Phật Học, dù là một Phật tử nhưng tôi thích học Văn Khoa hơn, v́ hồi c̣n nhỏ tôi đă mê đọc tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bảy, lớn lên một chút đọc các tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn.

Tôi nhớ cũng có vài anh ở Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật cùng ghi danh học với tôi, nhưng qua một mùa học th́ chỉ c̣n lại ḿnh tôi thôi.

Tưởng cũng cần nhắc lại, sau khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Giáo Hội tiến tới việc xây dựng cơ sở vật chất là Việt Nam Quốc Tự tại số 16 đường Trần Quốc Toản, có chương tŕnh đào tạo Tăng tài như thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học, mượn chùa Pháp Hội làm văn pḥng và lớp học, Viện do Ḥa Thượng Thích Trí Thủ làm Giám Đốc.

Sau đó, Giáo Hội xin phép chính phủ thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh, cử Thượng Tọa Thích Minh Châu làm Viện Trưởng, ông Hồ Hữu Tường Phó Viện Trưởng, ông Trần Quang Thuận Tổng Thư kư, thành lập thêm Phân khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn do Đại Đức Thích Thiên Ân, tốt nghiệp tiến sĩ văn chương ở Nhật làm Khoa Trưởng, mượn cơ sở chùa Xá Lợi của Hội Phật Học Nam Việt làm văn pḥng và lớp học. Thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xă Hội do Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh làm Giám Đốc, mượn chùa Ấn Quang làm trụ sở văn pḥng và lớp học. Viện Cao Đẳng Phật Học trở thành Phân Khoa Phật Học vẫn đặt Văn pḥng và các lớp học tại chùa Pháp Hội

Thượng Tọa Viện Trưởng Thích Minh Châu

Viện Đại Học Vạn Hạnh mượn một dăy nhà của chùa Pháp Hội làm văn pḥng, dăy nhà này gồm có 3 tầng, tầng dưới làm pḥng hành chánh, Văn pḥng Phân khoa Phật Học, tầng giữa văn pḥng Viện Trưởng, Phó Viện trưởng, Tổng Thư kư, tầng trên có dành một pḥng cho Thầy Nhất Hạnh ở, Thượng Tọa Viện Trưởng ở phía sau Chánh điện chùa Pháp Hội, đó là tầng lầu như chùa Xá Lợi.

V́ theo học Phân khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn nên tôi c̣n nhớ khai giảng niên khóa đầu tiên năm 1964-1965 tại Giảng đường chùa Xá Lợi, văn pḥng gồm có ông Nguyễn Văn Tần làm Trưởng pḥng hành chánh và học vụ, ông là tác giả của những quyển Lịch sử Nhật Bản do cơ sở Tự Do xuất bản, có cô Dung làm thư kư, về học phí Sinh viên đóng tiền tại Ngân hàng, cô thư kư này chỉ lo sổ sách giấy tờ, phân phát bài vở cho những sinh viên có mua bài học.

Các lớp học tổ chức vào 6 giờ chiều trở đi. Giáo sư Phân khoa này có ông Nguyễn Đăng Thục dạy Triết Đông, Thầy Nhất Hạnh dạy Tôn giáo tỉ giảo học, ông Mai Thọ Truyền dạy Tôn giáo học, giáo sư Nghiêm Thẩm dạy Thẩm Mỹ học, giáo sư Nguyễn Khắc Kham dạy về Cổ văn Việt Nam, giáo sư Nguyễn Văn Kiết dạy về Triết Tây Phương, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ dạy về Sử học (năm 1965 ( ? ) gs Tôn Thất Dương Kỵ và 2 người khác nữa bị chánh phủ VNCH đưa ra Bắc qua cầu Hiền Lương ở sông Bến Hải), giáo sư Nguyễn Thanh Liêm (hay Lê ?) dạy Địa Lư, ông Hồ Hữu Tường (Cao học Toán) dạy về Xă hội học, về sau c̣n có giáo sư Lê Tôn Nghiêm dạy về Triết Tây, giáo sư Lê Thành Trị dạy triết học Hiện sinh Descartes, ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần dạy về Triết Đông, giáo sư Phan Hồng Lạc dạy Hán Văn…

Phó Viện Trưởng Học giả Hồ Hữu Tường

Thoạt đầu, Viện Đại Học Vạn Hạnh áp dụng chế độ học theo Tín chỉ, một năm chia ra làm hai mùa học: Khóa mùa Xuân và khóa mùa Thu, muốn lấy bằng Cử Nhân phải có 8 Tín chỉ.

Trong năm đầu tiên ông Hồ Hữu Tường mượn chù Ấn Quang và nhờ Đào Mộng Nam mở dạy một lớp Sơ Cấp miễn phí “Hán Văn Cơ Bản”, trong lớp này có rất nhiều người theo học, trong đó có cô con gái Hồ Hữu Tường chừng 15 hay 16 tuổi, nghe nói cô ấy biết cả ngoại ngữ La Tinh.

Nếu tôi nhớ không lầm th́ vào buổi sáng ngày 12 tháng Giêng năm 1965, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng các cơ sở Viện Đại Học Vạn Hạnh tọa lạc tại số 222 Trương Minh Giảng, Quận Ba, Sàig̣n. Khu đất này của Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng hiến cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Để chuẩn bị cho buổi lễ, nơi đây xây dựng hai khán đài, một khán đài chính nh́n ra đường Trương Minh Giảng, một khán đài phụ, dựng cập theo con hẻm, bên kia con đường hẻm là chùa Pháp Hoa của Thượng Tọa Tuệ Hải, chùa cất dọc theo kinh Nhiêu Lộc.

 Tôi không nhớ rơ quan khách gồm có những ai, dĩ nhiên là có đại diện Bộ Giáo Dục, chư Tăng Viện Hóa Đạo, Thượng Tọa Viện Trưởng Thích Minh Châu, quư vị Khoa trưởng, Giám Đốc, Giáo sư các Phân khoa Phật Học, Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, Trường Thanh Niên Phụng Sự Xă Hội, quan khách ngồi ở khán đài chính, c̣n sinh viên ngồi ở khán đài phụ.

 Buổi lễ tổ chức đơn giản, cũng chào cờ, diễn văn, đặt viên đá … sau khi lễ xong, h́nh như tự phát, sinh viên tham dự lễ thành lập liên danh tranh cử Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, mọi người đều hăng hái tham gia hay cổ động tranh cử tuy không có bích chương, truyền đơn quảng bá, nhưng buổi tranh cử diễn ra không kém sôi nổi ngay tại khán đài này.

 Tôi được Đại Đức Thích Chơn Thiện mời vào liên danh - Đại Đức Thích Chơn Thiện biết tôi là một Huynh Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử quen thân với anh của Đại Đức cũng là Huynh Trưởng – và Đại Đức nhờ tôi giới thiệu thêm người, tôi đă giới thiệu Huynh Trưởng Nguyễn Đ́nh Nam vốn là học sinh cùng trường Kỹ Thuật Cao Thắng với tôi.

 Sau khi bầu cử, liên danh chúng tôi đắc cử, sau đó liên danh sắp xếp các chức vụ trong Ban Chấp hành như sau:

- Luật sư Trần Tiến Tự, SV Phật khoa  Chủ tịch
- Đại Đức Thích Chơn Thiện, SV Phật khoa Phó Chủ Tịch Ngoại vụ
- Huỳnh Ái Tông, SV VH & KHNV Phó chủ tịch Nội vụ
- Trần Thiện Bật, SV Phật khoa Tổng thư kư
- Nguyễn Đ́nh Nam, SV Phật khoa Phó Tổng thư kư
- Nguyễn Thị Nghĩa, SV Phật khoa Thủ quỹ.

Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh được Viện cho đặt văn pḥng chung với Ṭa Viện Trưởng, tức là trên tầng lầu một. Ban Chấp Hành được Viện trang bị cho một chiếc bàn, khi dọn những ngăn kéo, tôi mới biết đó là bàn làm việc của Tổng Thư Kư Viện, ông Trần Quang Thuận vừa mới từ chức và ông Nguyễn Văn Minh lên thay, không hiểu v́ lư do chi, ông Minh đă không dùng cái bàn ấy để làm việc, nhờ đó Ban Chấp hành được một cái bàn làm việc có bề thế.

Việc đầu tiên và quan trọng hơn hết là Ban Chấp Hành cần soạn thảo Điều Lệ cho Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, tôi được Ban Chấp Hành ủy nhiệm thành lập Ủy ban soạn thảo bản Điều Lệ, Ủy ban này gồm có đại diện của các Phân khoa. Theo gợi ư ban đầu, Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh là cơ quan thống nhất Sinh Viên Vạn Hạnh, sinh viên bầu trực tiếp Tổng Hội, Tổng Hội điều hành các ban Đại Diện Phân Khoa. Từ đó Ủy ban chúng tôi đă họp nhiều phiên họp, trong đó có anh Đồng (PK), chị Lan (VK), một sinh viên rất đẹp và rất tích cực hoạt động, mỗi tuần họp một kỳ, hơn một tháng mới hoàn tất Bản Điều Lệ để Tổng Hội Sinh Viên ban hành.

Gần đến Hè năm 1965, Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, được thư của anh Vĩnh Kha, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia Việt Nam, triệu tập Đại Hội các Tổng Hội Sinh Viên Huế, Sàig̣n, Đà Lạt, Vạn Hạnh để bầu lại Ban Chấp hành cho nhiệm kỳ mới.

Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh cử một phái đoàn phó hội gồm có:

- Bác sĩ Trần Tiến Trâm, Cố Vấn
- Trần Tiến Tự Trưởng Đoàn
- Thích Chơn Thiện Phó Đoàn
- Huỳnh Ái Tông Phó Đoàn
- Trần Thiện Bật Thư kư

V́ không có quỹ, nên phải nhờ ông Hồ Hữu Tường, Phó Viện Trưởng có con trai là Kỷ sư Hồ Xích Tú làm Phó Tổng Giám Đốc Hàng Không Việt Nam, can thiệp xin cho chúng tôi năm vé phi cơ khứ hồi của Hàng Không Việt Nam đi từ Sàig̣n đến Huế.

Phái đoàn Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh ra Huế sớm hơn vài hôm, v́ sớm quá nên Tổng Hội Sinh Viên Huế chưa lo kịp chỗ ăn ở, do đó hôm đầu tiên chúng tôi phải trú ngụ ở chùa Tường Vân của Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết, đương kiêm Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ngài là bổn sư của Thầy Chơn Thiện, c̣n anh Trần Tiến Tự về nhà của anh trong Thành nội.

Hôm sau, trong khi chờ đợi Tổng Hội Sinh Viên thu xếp chỗ ăn ở của  Phái đoàn, Thầy Chơn Thiện nhờ một bác Phật tử có xe Peugeot đưa chúng tôi đi ăn bánh bèo Vĩ Dạ, người ta thường bảo đến Huế mà chưa ăn bánh bèo Vĩ Dạ, cơm Âm phủ, quên mua Tré, nem chua, nón lá bài thơ, chưa nh́n cảnh nữ sinh Đồng Khánh đi qua cầu Tràng Tiền khi tan học về th́ cũng như chưa đến Huế, người có tâm hồn hơn bảo đến Huế mà chưa ngủ đ̣ trên song Hương cũng c̣n thiếu dù đă vào Đại Nội hay đă viếng lăng tẩm các vua.

Nói đến Vĩ Dạ, chúng ta không thể nào không nhắc đến chuyện v́ người đẹp Hoàng Thị Kim Cúc, sau làm Tổng Giám Thị Trường Đồng Khánh, đă mất v́ tai nạn tại Sàig̣n ngày 3-2-1989, Hàn Mặc Tử đă dụng tứ làm bài thơ nổi tiếng sau đây:\

Đây Thôn Vĩ Dạ

*

Sao anh không về chơi thôn Vỹ ?
Nh́n nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

*

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Gịng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ?
Có chở trăng về kịp tối nay ?

*

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nh́n không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết t́nh ai có đậm đà.

Chiều hôm đó, chúng tôi được dành cho hai pḥng ngủ ở khách sạn Hương Giang trên đường Phan Bội Châu, một pḥng Bác sĩ Trâm và anh Bật ở, pḥng c̣n lại anh Tự và tôi, nhưng anh Tự ra tới Huế là về nhà, cho nên anh chẳng cần ở khách sạn, ở đó gần chợ Đông Ba, bước vài bước ra chợ ăn sáng, trưa, chiều, tối cũng tiện cho. Riêng Thầy Chơn Thiện th́ về ở chùa.

Tối hôm ấy, chúng tôi được Ban Chấp Hành Tổng Hội mời đi ăn cơm Âm phủ, nơi ấy nghe nói ở cạnh sân vận động, ăn cơm vào buổi tối đèn đuốc lờ mờ, tối tăm như cơi âm, nên mới có tên là cơm Âm phủ, bửa ăn có các anh Vĩnh Kha, anh Kiêm, anh Tuấn, anh Phước, phía chúng tôi không có Thầy Chơn Thiện.

Sáng hôm sau, anh Tự hướng dẫn ba chúng tôi đi với anh đến Viện Đại Học Huế, thăm xă giao ông Viện Trưởng Bùi Tường Huân, ông Huân và anh Tự có quen biết nhau trước nên cuộc thăm viếng rất cỡi mở, thân t́nh. Rời văn pḥng Viện Trưởng, chúng tôi trở lại cầu Đông Ba để vào thăm Thành nội, trên đường đi, có ghé ngang nhà anh Tự, một ngôi nhà trang trí nhiều đồ xưa nào bàn, ghế, b́nh phong … đều là những thứ chạm trổ, gỗ quí. Rồi chúng tôi đến cửa Ngọ môn, leo lên trên vào buổi trưa, gió hiu hiu thổi, chỉ muốn nằm ngủ một giấc nhưng lúc ấy người nhà anh Tự t́m đến, trao cho anh một bức điện tín, anh xé ra xem và cho chúng tôi biết, anh có việc nhà phải về Sàig̣n gắp. Anh tuyên bố trao quyền Trưởng phái đoàn phó hội cho tôi.

Tưởng anh làm Trưởng đoàn và Thổ công để đưa chúng tôi thăm viếng các nơi trong Thành nội, nay anh về Sàig̣n gấp, không có người hướng dẫn, chúng tôi không c̣n hứng thú để đi thăm viếng thêm nên trở về khách sạn chờ phái đoàn Tổng Hội Sinh Viên Sàig̣n và Đà Lạt ra để hôm sau Đại Hội.

Chiều hôm đó, được tin Phái đoàn Đà lạt đă ra đến Huế, được bố trí ở Morin, nhưng Phái đoàn Sàig̣n chưa ra, họ liên lạc và cuối cùng được Tổng Hội Sinh Viên Sàig̣n cho họ biết là không ra tham dự Đại hội. Trước t́nh h́nh đó, Phái đoàn chúng tôi thảo luận và có nhận định rằng Tổng Hội Sinh Viên Sàig̣n biết Tổng Hội Sinh Viên Huế và Vạn Hạnh đă liên kết với nhau, họ khó giành được chức Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia Việt Nam nên không ra phó hội và Vĩnh Kha đă măn nhiệm, nếu không bầu được Ban Chấp Hành cho nhiệm kỳ mới, th́ không Ban Chấp Hành nào được quyền tuyên bố là Đại Diện cho Sinh Viên toàn quốc, cho nên Phái đoàn chúng tôi đề nghị ba phái đoàn Sinh Viên họp lại ra một thông báo chung là không có bất kỳ cá nhân hay đoàn thể nào được quyền thay mặt cho Sinh viên toàn quốc để tuyên bố bất cứ điều ǵ.

Do vậy, ba phái đoàn Tổng Hội Sinh Viên của ba Viện Đại Học đă họp và ra thông báo chung nội dung gồm có chấp nhận măn nhiệm của Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia, trong thời gian chưa bầu được Ban Chấp Hành cho nhiệm kỳ mới th́ không có bất cứ tổ chức Sinh Viên hay Sinh Viên nào có quyền đại diện cho Sinh Viên Quốc Gia Việt Nam.

Mấy hôm sau về Sàig̣n, chúng tôi có gửi đến tất cả Nhật báo tại Thủ đô để nhờ đăng tải thông báo chung này.

Tôi nhớ trong khoảng thời gian Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh ở Huế, có ngày Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy Ban hành Pháp Trung Ương Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ ra Huế, được Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Vùng I tổ chức cuộc đón tiếp tại rạp hát trên đường Phan Bội Châu. Phái đoàn chúng tôi có dự nghe cuộc nói chuyện này, khi gần chấm dứt th́ các anh Tổng Hội Sinh Viên Huế nói riêng với chúng tôi: "Bây giờ mời các anh đi ra trước và nên tránh khỏi nơi đây, để chúng tôi bắt đầu làm việc."

Khi ra khỏi rạp hát, chúng tôi đă thấy nhiều chiếc xe bus dàn trước cửa rạp hát, quần chúng và Sinh viên Huế chuẩn bị biểu t́nh phản đối chính phủ, chúng tôi về khách sạn nghỉ.

Một hôm khác, anh Phước và vài anh nữa trong Tổng Hội Sinh Viên Huế, đưa chúng tôi ra cửa Thuận An để tắm biển, cửa biển Thuận An cách cố đô Huế không xa nhưng ngoài Sinh viên chúng tôi, không có ai tắm biển hôm đó và trên băi tắm cũng không hề có hàng quán, không có bóng người lai văng.

Một hôm đi ngang qua đầu cầu phía thành nội, thấy có những người bày biện lễ vật ra cả lề đường, khói nhang nghi ngút, họ đang vái lạy. Nơi đó không nhà cửa ai cả, có người cho biết đó là họ cúng Cô hồn trận Kinh thành thất thủ ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu ( nhằm 5-7-1885 ), trong Hạnh Thục ca của Nguyễn Nhược Thị c̣n ghi lại :

..........................................
Liệu chừng thuốc đạn đă ṃn,
Giăy lên, Tây mới thành môn bắn vào.
Nhường như sấm sét ầm ào,
Dẫu là núi cũng phải chao, huống thành!
Quân ta khôn sức đua tranh,
Đem nhau trốn chạy tan tành bèo trôi.
...........................................

Về Sàig̣n, chúng tôi mới biết rằng anh Trần Tiến Tự có việc riêng cần về Sàig̣n gắp, đó là việc anh có chân trong phái đoàn Sinh Viên Việt Nam đi Mỹ, việc làm ấy hoàn toàn trái ngược với đường lối chủ trương của Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, do đó Tổng Hội đă băi nhiệm chức Chủ tịch của anh và tôi được ủy nhiệm Quyền Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh từ đó cho đến hết nhiệm kỳ.

Hè năm đó, Sinh viên Huế có tổ chức Trại Hè của Sinh viên tại Đà Nẳng, lúc ở Huế, phái đoàn chúng tôi đă nhận lời cử Sinh Viên ra dự Trại Hè này. Do vậy, Ban Chấp Hành đă đề cử anh Nguyễn Đ́nh Nam, Phó Tổng Thư kư làm Trưởng đoàn cùng với Sinh Viên các Phân khoa tham dự Trại Hè Sinh Viên năm 1965 tại Đà Nẳng.

Sang niên khóa 1965-1966, tôi không có ư định ra ứng cử, một là tôi không có ê-kíp làm việc, hai là tôi sẽ ra trường Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, tôi sẽ được bổ nhiệm một chân giáo sư, việc này không cho phép tôi đảm nhiệm trách vụ đến cuối nhiệm kỳ. Ban Chấp Hành sắp măn nhiệm nên thành lập Ban Tổ chức Bầu cử Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh nhiệm kỳ 2, 1965-1966.

Anh Đỗ Văn Khôn, sinh viên Phật Khoa, cũng là một Huynh Trưởng t́m gặp tôi, anh đưa ra hai đề nghị: Một là tôi thành lập liên danh ra ứng cử, hai là tham gia vào liên danh của chị Cao Ngọc Phượng- ngày đó tôi chưa hề quen biết chi với chị Phượng – Nhưng theo lời anh Khôn, chị Phượng muốn tôi ra ứng cử, chị và Nhóm Sinh Viên Phật Khoa đang theo Thầy Nhất Hạnh sẽ ủng hộ liên danh của tôi. Tôi chấp nhận tham gia vào liên danh của chị Phượng.

Cuối cùng liên danh của chị Cao Ngọc Phượng đắc cử Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh nhiệm kỳ 2. Liên danh này gồm có :

- Giáo sư Cao Ngọc Phượng SV PK, Chủ tịch
- Chị Nguyễn Thị Thanh SV PK, Phó Chủ tịch Nội vụ
- Anh Huỳnh Ái Tông SV VH & KHNV Phó Chủ tịch Ngoại vụ
- Anh Đỗ Văn Khôn SV PK Tổng Thư kư
- Chị Uyên SV PK Phó Tổng Thư kư
- Chị Nhất Chi Mai SV PK Thủ quỹ

Trong Ban Chấp Hành Tổng Hội nhiệm kỳ này, tôi được biết Chị Cao Ngọc Phượng du học ở Pháp về, giáo sư dạy ở Đại Học Khoa Học, anh Đỗ Văn Khôn làm việc ở pḥng Thuế vụ Quận 10, chị Uyên sinh viên thuần túy, chị Nhất Chi Mai, theo trí nhớ của tôi, chị là y tá nhưng trong các tài liệu của Thượng Tọa Thích Thiện Hoa hay Ḥa Thượng Thích Trí Quang đều ghi chị là giáo viên, và có một em học sinh trường Tiểu Học Tân Định đọc bài Những Ngày Đầu Của Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, bày tỏ ḷng tôn kính của em đối với chị vừa là cô giáo, vừa là mẹ nuôi của em.

 Ban Chấp Hành Tổng Hội nhiệm kỳ này đă tổ chức một bửa cơm gây quỹ, một kỳ họp báo và tham gia biểu t́nh chống chính phủ đă bị Thượng Tọa Viện Trưởng Thích Minh Châu không đồng ư – Lần biểu t́nh đó, tôi về quê không tham dự được, khi lên Sàig̣n chị Phượng cho biết Thầy Viện Trưởng và Ban Chấp Hành có mâu thuẩn lớn, Thầy không đồng ư Tổng Hội tham gia biểu t́nh theo đường lối của Viện Hóa Đạo, chị Phượng yêu cầu tôi vào gặp Thầy Minh Châu để thỉnh cầu Thầy ủng hộ Tổng Hội hoạt động theo đường lối của Viện Hóa Đạo. Về việc nầy, tôi đă vào pḥng Thầy ở trên lầu chùa Pháp Hội xin Thầy thông cảm cho hoạt động của Ban Chấp Hành đă thi hành theo chủ trương của Viện Hóa Đạo. Thầy đă nói với tôi là Thầy không đồng ư Ban Chấp Hành Tổng Hội có những hoạt động theo đường lối của Viện Hóa Đạo chống chánh phủ, đem lại sự bất lợi cho Viện, v́ chánh phủ có thể lấy lư do đó đóng cửa, rút giấy phép của Viện Đại Học Vạn Hạnh.

 Sau khi gặp Thầy Viện Trưởng, tôi đă báo cáo rơ cho chị Cao Ngọc Phượng biết đường lối của Tổng Hội như hiện nay không được Thượng Tọa Viện Trưởng đồng ư, tuy nhiên Tổng Hội độc lập với Viện, Ban Chấp Hành phải đi theo nguyện vọng chính đáng của Sinh Viên. Những bất đồng của Viện và Ban Chấp Hành Tổng Hội bắt đầu từ đó, nhưng thật ra nguyên nhân c̣n sâu xa hơn mà cho đến nhiều năm sau này, tôi mới hiểu được. Lúc đó tôi chỉ thắc mắc tự hỏi: Viện Đại Học Vạn Hạnh là của Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội đang đ̣i hỏi chánh phủ thực thi dân chủ, tiếng nói của Sinh Viên có sức mạnh cho công cuộc đấu tranh, tại sao Thượng Tọa Viện Trưởng lại không muốn dùng tới sức mạnh này ?

Vào khoảng tháng 2 hay 3 năm 1966, có sinh viên Hoa Kỳ Philip, Chủ tịch hội Liên Hiệp Sinh Viên Học Sinh Mỹ đến Việt Nam t́m hiểu t́nh h́nh và nguyện vọng của dân chúng Việt Nam. Anh có xin gặp Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh. Buổi họp đă diễn ra tại pḥng họp của THSVVH, trên lầu của Viện Đại Học, đi theo anh Philip có một người thông dịch của Ṭa Đại sứ Mỹ. Anh Philip có cho biết, chánh phủ Mỹ chủ trương đánh cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phải quỳ gối xuống xin đầu hàng. Chị Phượng thay mặt THSVVH  cho biết rằng Hoa Kỳ nên giúp cho hai bên lâm chiến ngồi lại với nhau, giải quyết cuộc chiến qua hội nghị, thương thuyết hơn là dùng vũ lực, thắng hay bại cũng đều gây cảnh tang thương cho dân chúng Việt Nam và chiến binh Mỹ. Sau đó Thầy Nhất Hạnh bước vào pḥng họp, Ban Chấp Hành giới thiệu Thầy là Cố Vấn Ban Chấp Hành, Thầy đă nói với anh Philip rằng chiến tranh Việt Nam dù bên nào thắng hay bại, cũng gây cho người dân vô tội chết chóc thương tâm, Mỹ chủ trương đánh cho MTGPMN phải quỳ gối xin hàng, điều này không thể thực hiện được, v́ chiến tranh du kích không có giới tuyến, bất quy tắc, nên khó tiêu diệt. Do đó, Hoa Kỳ nên để cho hai bên lâm chiến ngồi vào hội nghị, giải quyết với nhau trong t́nh Huynh đệ của người Việt Nam.

Đầu tháng 9 năm đó, tôi rời Sàig̣n để lên vùng Cao nguyên dạy học, trước khi đi, ngày 23-8-1966, Ban Chấp Hành Tổng Hội có đăi tôi một bửa cơm chay tại quán Thanh Lạc Trai, quán này nằm trên đường Trần Quốc Toản, đối diện với Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Trong bửa cơm chia tay này, Ban Chấp Hành tặng cho tôi nhiều cuốn sách của nhà xuất bản Lá Bối, trong đó có quyển "nói với tuổi hai mươi" của Thầy Nhất Hạnh, tôi quí cuốn sách này v́ trong ấy có chữ kư của Thầy và mấy ḍng chữ viết của chị Cao Ngọc Phượng "Quà của Ban Chấp Hành T.H.S.V.V.H Thân tặng anh Huỳnh Ái Tông T.M. Ban Chấp Hành" và chữ kư của chị Phượng. Sau bửa ăn, chị Nhất Chi Mai đă đưa tôi về nhà bằng chiếc xe Volwagen của chị, đó là lần cuối cùng tôi gặp chị Nhất Chi Mai. Cũng là lần cuối cùng tôi gặp chị Cao Ngọc Phượng, v́ chị đă "cắt ái ly gia, xuất phiền năo gia, xuất tam giới gia" hiện nay là Sư Cô Chân Không, đệ tử thân cận và triệt để y giáo phụng hành các pháp môn mới của Thiền sư Nhất Hạnh, ở Làng Mai, Pháp quốc.

Anh Trần Tiến Tự vào thập niên 80, tôi có gặp lại anh ở trên đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi vui vẻ chào hỏi nhau, tôi thấy anh vẫn như ngày nào, không khác mấy dù đă gần 20 năm mới gặp lại, anh rủ tôi đi sinh hoạt ở Hội Trí Thức Yêu Nước, có trụ sở ở đường Nguyễn Thông, Quận Ba, tôi chỉ cười thay cho trả lời, không ngờ đó cũng là lần cuối tôi gặp Luật sư Trần Tiến Tự, có phải anh là con ong, nơi nào có mật ngọt th́ ong bay tới?

Tôi lên Cao nguyên dạy học, bị động viên vào quân trường, rồi biệt phái về Cao nguyên lại nên không có tiếp tục học ở Vạn Hạnh, thời gian này tôi có ghi danh học ở Luật Khoa, có lấy bài vở đầy đủ, nhưng cũng không thời giờ học, không có thi cử chi hết.

Đến năm 1970, tôi được thuyên chuyển về Sàig̣n, nên ghi danh theo tiếp tục học lại ở Phân Khoa Văn Học Và Khoa Học Nhân Văn, v́ tôi đă có mấy tín chỉ, hơn nữa tôi đă tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật nên được ghi danh học năm thứ hai. Viện đă cải tổ học tŕnh theo chế độ năm, không c̣n chế độ Tín chỉ nữa. Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn phát bằng Cử Nhân Văn Học Việt Nam, Cử Nhân Văn Chương Anh Mỹ, Cử Nhân Báo Chí.

Viện Đại Học Vạn Hạnh đă xây cất hoàn tất phần cơ sở chính, toàn bộ Văn pḥng Viện Trưởng, các Phân Khoa và các lớp học đều ở tại cơ sở Viện Đại Học Vạn Hạnh, tọa lạc tại 222 Trương Minh Giảng, Quận 3, Sàig̣n. Lúc đó ngoài hai Phân Khoa chính đă thành lập ban đầu là Phật Khoa, Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, Viện đăng xây cất thêm cơ sở gồm một dăy nhà ngang ngó mặt ra đường Trương Minh Giảng và một dăi cập theo đường hẽm, song song kinh Nhiêu Lộc để đủ cho các lớp học của Trung Tâm Ngôn Ngữ, Phân Khoa Giáo Dục, Phân Khoa Khoa Học Xă Hội, Thư Viện, Câu Lạc Bộ Sinh Viên và đến năm 1974, mở thêm Phân Khoa Khoa Học Ứng Dụng đường Vơ Di Nguy Phú Nhuận, tại địa điểm sau này là Thiền Viện Vạn Hạnh ngày nay.

Viện Đại Học Vạn Hạnh 222 Trương Minh Giảng Quận 3 Sàig̣n (trước năm 1975)

Giáo sư dạy ở Văn Học và Khoa Học Nhân Văn có giáo sư Nguyễn Đăng Thục (Triết Đông), Tiến sĩ Trần Cửu Chấn (Cổ Văn Việt Nam), giáo sư Doăn Quốc Sỹ (Tiểu thuyết), Nguyễn Sỹ Tế (Phê b́nh văn học), Vũ Khắc Khoan (Phê b́nh văn học), Trần Đức Rật (Hán văn), Trần Trọng San (Bạch thoại), Bà Khưu Thị Huệ (Đàm thoại Phổ thông), Thuần Phong Ngô Văn Phát (Văn chương b́nh dân), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (Hán văn), Huỳnh Minh Đức (Hán văn), Bửu Cầm (Cổ văn), Nguyễn Văn Xung (Thẩm Mỹ Học), Nguyễn Quyết Thắng (Thi ca Việt Nam), Đinh Quang Kim (Anh Văn ), KTS Đỗ Bá Vinh (Nghệ thuật kiến trúc PG), Kỷ sư Ngô Trọng Anh (Triết Tây) . 

Gíáo sư Thuần Phong, Nguyễn Văn Xung, Đinh Quang Kim, Nguyễn Đăng Thục, Doăn Quốc Sỹ, Huỳnh Minh Đức, KTS Đỗ Bá Vinh (đứng sau Huỳnh Minh Đức)

Huỳnh Ái Tông, Lư Trương Quang, Bùi Văn Sớm, Vũ Văn Trung, Chu Thị Xuân Mai, Trương Bích Vân, thân phụ Lư Trương Quang

Tôi đă hoàn tất học tŕnh Cử nhân Văn học Việt Nam, lấy một chứng chỉ Cao học Văn Học Việt Nam chờ Viện mở thêm chứng chỉ Cao học 2 để hoàn tất học tŕnh Cao học th́ Cộng sản chiếm Miền Nam, cuộc đổi đời đă bắt đầu từ đó.

Nguyễn Thị Huỳnh Mai (BC) Lư Trương Quang (VHVN), Bùi Văn Sớm (VHVN), Huỳnh Ái Tông (VHVN), các Cử Nhân (VCAM)

Lễ Cấp Phát Văn Bằng Cử Nhân Các Phân Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh đợt 3 năm 1973

Đi làm, đi học măi lo sinh kế, tôi không có th́ giờ tham gia vào các sinh hoạt của Sinh Viên, tôi nghĩ mỗi thời sinh hoạt thích hợp cho một lứa tuổi, thời của tôi đă bước qua rồi, những năm học ở Đại Học Vạn Hạnh đă đem lại cho tôi một kiến thức đủ để thưởng thức những áng văn hay của Văn học nước nhà, và sưu tầm được những tài liệu gom lại thành một tác phẩm Văn Học Miền Nam ( * ) .

Những người bạn học cùng lớp Văn Học Việt Nam, chị Nguyễn Ngọc Mai là phu nhân của Thiếu Tá Hải Quân, nên đă di tản năm 1975, Thiếu Tá Vũ Văn Trung là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn khóa sinh Trường Quân Cụ, chắc cũng đă di tản từ năm 1975, Trần Hổ Từ người Việt gốc Hoa, cựu học sinh Tabert đă đi du học ở Đài Loan sau khi đậu Cử Nhân, Bùi Văn Sớm đi Mỹ theo diện đoàn tụ vào đầu thập niên 90, cô Bích Vân là giáo viên Trường Trung Thu, nhà ở gần Viện Pasteur, không chắc cô c̣n ở đó, chị Chu Thị Xuân Mai nhà ở Bến Chương Dương lâu ngày tôi không c̣n nhớ địa chỉ, đi t́m thăm Lư Trương Quang nơi khu cư xá Bưu Điện gần đài Truyền H́nh, người ta cho biết anh đă dọn đi từ lâu.

Một hôm vào thăm Thầy Tuệ Sỹ ở Già Lam, bỗng dưng anh Vũ Thế Ngọc cũng đến thăm Thầy, không hẹn mà gặp, trên 30 năm rồi, anh cũng ở Mỹ về thăm lại Việt Nam, sau khi thăm Thầy xong, chúng tôi ra quán cóc bên gốc cây đại trong khuôn viên chùa ngồi uống cà phê, chuyện tṛ thêm sau 30 năm vận nước nổi trôi, anh hỏi tôi về bạn bè cũ, tôi nghĩ có lẽ chỉ c̣n cô Bích Bướm, xưa tôi từng đến uống cà phê ở quán của cô, tôi hẹn với Ngọc, nếu tôi liên lạc xong sẽ cho anh biết để đến đó thăm Bích Bướm, nhưng tôi đến nơi mới biết gia đ́nh Bích Bướm đă đi Mỹ từ lâu rồi.

Học chung với nhau vài năm, thời gian trôi qua vài mươi năm, t́m lại mỗi người mỗi nơi, khó mà gặp lại. Gặp Vũ Thế Ngọc thật t́nh cờ, quí hiếm, giúp cho chúng tôi nhớ lại bạn bè, nhớ mái trường xưa, nhớ những vị giáo sư như cụ Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Thẩm, Vũ Khắc Khoan, Doăn Sỹ Tế ... dần dần khuất bóng, nhớ cái không gian của những buổi học. Thời gian vốn vô t́nh trôi chảy, măi măi không ngừng, chôn xóa biết bao kỷ niệm, thay đổi từng giờ, từng phút, từng sát na sinh diệt. Dĩ văng đă qua rồi, tương lai chưa tới, hiện tại vốn là KHÔNG.

 

Huỳnh Ái Tông, Vũ Thế Ngọc (tác giả Trà Kinh cùng học chung năm thứ tư) TT. Thích Tuệ Sỹ (2007)

22-2-2009

01-03-2009

Tài Liệu: (Nhấp chuột vào hoa thị * để đọc tài liệu)

( * ) Giới thiệu Viện Đại Học Vạn Hạnh (1964-1975)

( * ) Chỉ Nam: Phần Mở Đầu

( * ) Giới thiệu Phân Khoa Phật Học

( * ) Giới thiệu Phân Khoa Văn Học & Khoa Học Nhân Văn

( * ) Tài liệu Các Văn kiện Căn Bản

( * ) Điều Lệ Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh (1965)

( * ) Danh Sách Sinh Viên Được Cấp Phát Văn Bằng Cử Nhân đợt 3 năm 1973

( * ) Các chứng chỉ

( * ) Văn bằng Cử Nhân