Bát Nhă Tâm Kinh
般 若 波 羅 蜜 多 心 經
*
Người Phật tử chắc chắn ai cũng ít nhất một lần đọc qua Bát Nhà Ba La Mật Đa Tâm Kinh, có nhiều người hàng ngày tụng Kinh, đều phải tụng qua bài Kinh này v́ câu thiệu “Vào Đại Bi, ra Bát Nhă”, tức là trước khi tụng bản Kinh chính thức, người ta phải tụng bài Chú Đạ Bi và sau khi chấm dứt bản Kinh chính người ta tụng Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Chú Đại Bi được trích từ Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh. Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, v́ muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa ĺa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hăi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doăn hứa.".
Như vậy, khi tụng Kinh để mong hiểu được nghĩa Kinh mà hành, th́ đức Quán Thế Âm đă nói: “ … được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu.” , hoặc là tụng Kinh để tiêu trừ các ác nghiệp, thành tựu các thiện căn như đức Quán Thế Âm đă nói: “được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa ĺa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn”, v́ lẽ đó, cho nên người ta tụng chú Đại Bi trước khi tụng bản Kinh chính chẳng hạn như Phổ Môn, A Di Đà …
C̣n Bát Nhà Tâm Kinh được đọc sau bản Kinh chính, về ư nghĩa có lẽ cổ đức đă dùng tên gọi Bổ Khuyết Chân Kinh là chính xác, bao hàm ư nghĩa thâm sâu, theo thiển kiến chúng tôi một là chỗ nào Kinh thiếu nghĩa lư, chỗ nào tụng sai th́ Tâm Kinh bổ sung vào cho đầy đủ, hai là tất cả đều KHÔNG.
Trong Tâm kinh, câu được cho là thần chú, "Tức thuyết chú viết":
Chữ Devanāgarī गते गते पारगते पारसंगते बोधि स्वाहा,
Âm Phạn ngữ: Gate gate Pâragate Pârasamegate Bodhi Svâhă,
Chữ Hán: 揭諦揭諦,波羅揭諦,波羅僧揭諦,菩提薩婆訶,
Phiên âm Việt ngữ: Yết Đế Yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha。
Ḥa Thượng Nhật Liên đă dịch ra chữ Hán đăng trong tạp chí Từ Quang vào thập niên 60.
Độ khứ, độ khứ,
Cứu kính độ khứ,
Cứu cánh chúng độ khứ.
Giác ngộ tốc viên thành.Dịch nghĩa :
Đi qua, đi qua,
Qua đến bờ bên kia,
Mọi người đồng qua đến bờ bên kia.
Nguyện sự giác ngộ chóng tṛn thành.Ông Max Muller đă dịch ra Anh ngữ :
O wisdom, gone, gone, gone to the other shore, landed at the other shore, svâhă.
Ông J. Harquès Rivière có qua Tây Tạng nghiên cứu đạo Phật, ông đă dịch Pháp ngữ :
O sagesse, partie, partie, partie vers l’autre rive, conduite vers l’autre rive, svâhă.
Cả hai bản Anh và Pháp ngữ đều có nghĩa :
Này trí huệ ! Đi, đi, đi qua bờ bên kia, dắt qua tới bờ bên kia, ta bà ha.
Ai cũng biết rằng chú có công năng làm mưa, làm gió “hô phong, hoán vũ” nghĩa là luyện tập, đọc nó th́ sẽ có công hiệu. Tin như vậy th́ đọc Chú: “Yết đế, yết đế…” sẽ có công hiệu trong công hạnh tu chứng của ḿnh.
Mặc dù nằm ḷng mấy câu của Ḥa Thượng Nhật Liên dịch Chú trong Tâm Kinh ở trên, mấy chục năm qua, tôi vẫn tụng Tâm Kinh, vẫn nghĩ rằng đó là Chú, cứ tụng, cứ nhắm mắt mà tụng để đạt được hiệu quả: “Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát Nhă Ba La Mật Đa, đạt đạo quả vô thượng Chánh đẳng, Chánh Giác”
Tôi cứ yên chí tụng bao nhiêu năm qua, nhưng cho đến một hôm đang tụng Tâm Kinh, tôi bỗng hiểu ra “Yết đế! Yết đế …”, không phải là chú, chú vốn là những cái KHÔNG ở trước đó, “Không sinh, không diệt … không chứng đắc”
Khi người ta tu tập để đạt tới liễu ngộ “Tánh Không”, sẽ không c̣n nhị nguyên, sẽ không c̣n vướng mắt, sẽ không c̣n Ta, cái của ta, sẽ không có phiền năo, không làm tội phước, không vướng nghiệp, thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Lấy cái Không ấy làm Thần chú sẽ trừ được mọi khổ đau, nghiệp lực, luân hồi.
Cái KHÔNG ấy chính là cốt tủy của Kinh là Tâm kinh, nhưng cho đến khi nào không đắc, không thất, không bỉ, không thử, không có, không không th́ Yết đế và Không đều là Thần chú. hay cũng không là Thần chú.
Lou. 4-1-2012