Dân thợ học triết

 

Thuở ấy, ở trường Kỹ thuật Cao Thắng, năm học đệ lục vì thiếu điểm về môn toán cho nên tôi phải lên học lớp đệ ngũ chuyên nghiệp dụng cụ. Ngành này chỉ được học cho đến bằng trung học đệ nhất cấp kỹ thuật rồi đi làm việc trong các hãng xưởng hay xin việc ở hãng Ba son hoặc được vào quân đội làm ở quân cụ hay thợ máy.

Cái giấc mơ làm thầy cho le bị tiêu tan vì tôi không có khả năng và điều kiện học lấy bằng tú tài, thi vào đại học mà ra dân thầy như luật sư, bác sĩ, giáo sư…

Nhưng mà dân gian có câu: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh và tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc, thì có nghề có thể đi làm kiếm miếng ăn chỗ ở là đủ hạnh phúc rồi.

Tôi đậu Trung học kỹ thuật đệ nhất cấp chuyên ngành dụng cụ hạng bình thứ. Như vậy tôi có hy vọng cưới vợ vì trước khi thi mấy anh bạn cứ ngâm ra rả Phi cao đẳng bất thành phu phụ, sau này tôi mới biết đó là bằng trung học. Các cô Gia Long, Trưng Vương… chỉ nhắm các cậu Pétrus Ký, Chu văn An, Võ Trường Toản.. Còn các cô đầm Marie Curie, Couvent des Oiseaux… thì đừng hòng...

Tôi thành thợ nghề chuyên về tiện, phay, bào.. và vác đơn xuống Ba son xin việc.

Nhưng cơ may có ông hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh ở Pháp về, muốn đào thêm nhiều tú tài kỹ thuật nên cho mở thêm một lớp đệ tam tuyển học sinh có trung học kỹ thuật chuyên nghiệp vào học lên tú tài. Ưu tiên cho học sinh đậu có thứ hạng, tôi lọt vào hạng này.

Ngày khai trường vào học, tôi nghĩ tới các bạn phải thi kỳ hai không biết ra sao? Chúng tôi đình công không vào học, yêu cầu ông Đảnh bỏ lớp mới hoặc mở thêm lớp đệ tam cho tất cả anh em vảo học.Không quyết định được, ông Đảnh mời ông Được là Giám Đốc nha Kỹ thuật học vụ đến trường để giải quyết.

Chúng tôi giữ nguyên yêu sách. Sau cùng ông Được cho mở thêm lớp đệ tam cho tất cả học sinh đậu trung học. Thế là tôi có hy vọng thi tú tài.

Thời đó ban Kỹ Thuật của nhà trường, sau trung học đệ nhị cấp, đậu Tú Tài II kỹ thuật sẽ có thể thi vào Phú Thọ, học kỹ sư hay Sư phạm kỹ thuật và tất cả các đại học khác như Nông lâm, Sư phạm, Y Dược… Bẳng tú tài II phổ thông hay kỹ thuật giá trị như nhau và bằng Tú Tài II kỹ thuật được công nhận tương đương với tú tài II của Pháp để nhập học các lớp dự bị thi Kỹ sư của Pháp.

Bên cạnh chương tŕnh học nghề, chúng tôi cũng học theo chương tŕnh học chung của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, cũng đủ hết các môn Phổ Thông như Toán, Lư,Hóa Việt Văn, Triết Học, Lịch Sử, Địa Lư, Công Dân, Anh Văn, Pháp Văn, Mỹ Thuật Họa, Thể Dục … dù có rút ngắn hơn chương tŕnh thường lệ.

Năm học đệ nhất, thầy Mẫn dạy Triết Học. Đối với tôi, môn này mới lạ và khó hiểu, nặng nề .

Chương trình học đại khái giống như chương trình triết ban toán phổ thông nhưng rút ngắn. Chúng tôi học về Luận lư học và Đạo đức học.

Chỉ trong ṿng một năm học ở lớp cuối trung học, lần đầu tiên xiếp xúc với môn Triết mà học sinh đă bị nhồi nhét quá nhiều kiến thức mới lạ, trừu tượng và cao siêu đến bội thực. Ngoài các môn triết của Pháp và c̣n học thêm triết học Đông phương.

Chúng tôi học nào là Platon, Kant, Descartes, Pascal, J.J. Rousseau, Bergson, Claude Bernard, chủ nghĩa hiện sinh của J.P. Sartre... và Đông phương như Đại học, Trung dung, Mạnh Tử, Luận ngữ, Đạo đức kinh….

Làm sao hiểu được với cái kiến thức nông cạn của học sinh câu:

Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh.
Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu…

Nhưng là dân thợ, các kiến thức này không được tôi quan tâm nhiều như môn Kỹ nghệ họa, kỹ thuật học, toán, lý, hóa... vả lại môn này có hệ số 2 trong khi các môn toán có hệ số 5 và lý hóa hệ số 4.

Hơn nữa cái triết học của tôi học được theo tôn chỉ một bức vễ hơn bài diễn văn. Thầy Kiệt dạy xưỡng cũng đã nói: “Mấy cái thằng văn chương bậy, nó chê tôi dốt văn chương, thử hỏi xe nó không chạy, đứng đó đọc thơ với văn xe nó có chạy không? Tôi phải mở bu gi, cạo trấu xem có đìển, có xăng, may ra xe mới chạy được. Còn không thỉ chờ đến sang năm xe cũng không chạy.’’

Về Đạo đức, thầy Long hột nhãn đã dạy:

Nhẫn, nhẫn, nhẫn trái tử oan gia tùng tử tận,
Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu.
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc.
Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do

Dị̣ch nghĩa:

Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, khẩu nhẫn, tâm nhẫn) th́ điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.

Nhịn nhịn nhịn (thân nhịn, khẩu nhịn, tâm nhịn) th́ ngàn tai muôn họa đều tan biến.

Nín nín nín (thân nín, khẩu nín, tâm nín) th́ cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.

Thôi thôi thôi (thân thôi, khẩu thôi, tâm đều thôi) th́ những công danh cái thế không c̣n tự do..

Thầy Hà nói: Các anh đang đến chân tường, chỉ biết có số dương,người ta có thể lấy căn số âm nhưng phải trèo lên tường để xem trời bên kia .

Câu nầy tôi nhớ lâu vì nó khơi lên cái tính tò mò tìm hiểu sư kiện của tôi.

Thầy Bá Tước có cho đề luận văn: Người chánh trực thì công bằng

Còn về chủ nghĩa nhân vị của Ngô tổng thống thì tôi mù tịt. Cho đến mãi về sau thì các ông Kant, Descartes, Pascal, J.J. Rousseau, Bergson nói gì tôi cũng không nhớ, chỉ nhớ là Descartes, Pascal đã có viết về các định lý trong quang học và vật lý. Còn ông Lão tử viết về thuyết vô vi thì xin chịu thua. Ông Khổng tử thỉ tôi biết nhiều hơn qua truyện Đông chu liệt quốc và bài học về thầy Tử Lộ trong Nhị Thập tứ hiếu học năm đệ lục như bài kệ thiền tông :

“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.”

Khi đến thời thất thập thì tôi tìm về triết học để giải tỏa trăm ngàn nỗi lo trong cuộc sống bon chen ở cái xã hội tây phương này: lo nhà, lo điện, lo xe, lo xăng, lo thuế, lo lương, lo vợ, lo con, lo cháu, lo sức khỏe, lo ăn, lo trộm, lo bảo hiểm…

Các triết gia tây phương hiện đại như Onfray, Levy, Mathieu, André…viết khó hiểu và viễn vông, sách triết tây phương thì không phù hợp với tôi, cho nên tôi quay về triết học đông phương như thiền, Phật giáo và văn học Việt có cả kho tàng triết học vì

...Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời…

 

Nguyễn Hoạt 2023