Thi tập
Huỳnh Văn Đoan
Tự Chí Nhân
Ông Huỳnh Văn Đoan sanh năm 1895 mất năm 1954, tại Cù lao Năng Gù, làng B́nh Thủy, tổng Định Thành, quận Châu Thành, Tỉnh Long Xuyên, ông có hành nghề kim hoàn, rồi tham gia Ban Hội Tề làng B́nh Thủy từng giữ chức Hương Quản rồi Hương Sư, theo đạo Phật, là Hội viên Hội Thông Thiên Học Pháp Quốc, ông là thi sĩ có những bài thơ đăng trên báo Đuốc Nhà Nam, ông cũng là họa sĩ, ông có đắp nổi bức b́nh phong trước đ́nh B́nh Thủy và một số tranh, trang trí trong Đ́nh và những bức tranh sơn thủy, để người ta trang trí ở bàn thờ ông bà.
*
Khuya ngắm trăng thu sanh cảm
Lữ thứ cảm tác
Khóc chồng chết
Khóc tuần trăm ngày
Chơi núi
Chí trượng phu
Lữ thứ cảm tác
Đất khách đêm khuya
Ngư ông tự vịnh
Tu thân
Kỵ nữ tự thán
Cảnh Nhàn (Sơn Cư)
Khuyến Thiện
Nghèo ly hương
Xứ lạ đêm mưa
Tiều phu tự vịnh
Tri thù (nhền nhện)
Cảnh hoàng hôn (Bến đồn Mặc Cần Dưng)
Cá Thia Thia đá lộn
Khuyến tu 1
Khuyến tu 2
Thiền gia tự vịnh
Tu
Đen bạc thói đời
Hoài t́nh
Nghèo đất khách than thân
Khóc cháu
Mừng có con thơ
T́nh đời
Răn ḿnh
Đất khách nhớ t́nh nhân
Thâm canh cảm hứng
Nhàn Thân
Chào Xuân
Chiều dạo chơi bờ biển
Chửa hoang
Thưởng Quỳnh hoa
Họa sĩ tự vịnh
Tu 2
Phụ lục
Văn tế mẹ
Đêm thu hé cửa đến huê viên,
Ngắm nguyệt vừa chinh chạnh cảm liền.
Khóm cúc thấm sương bông hoặc hoặc,
Cḥm hường đượm tuyết nhụy nghiêng nghiêng.
Nĩ non dế hát khêu điều thảm,
Rụu rịt ve ngâm gợi nỗi phiền.
Áo năo mối sầu ḷng dă dượi,
Tương tư đoạn nhớ dạ buồn riêng.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 28 ngày 8-10-1932Lữ thứ cảm tác
(Điệu giá cổ thiên)Cái gánh tang bồng nặng lắm thay,
Giang hồ trôi nổi bấy lâu ngày.
Đau ḷng chạnh nhớ quê hương cũ,
Khách lạ bơ vơ đất khách nay.
Sầu luống chịu,
Thảm trông hoài.
Buồn riêng !! Riêng biết cùng ai ?
Cảm thương phận mẹ ngồi kề cửa,
Ĺa sống thân con lụy nhỏ dài
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 28 ngày 8-10-1932
Ủa đâu ? Ba vạn sáu ngàn ngày,
Ai xẻ t́nh chung dứt bửa nay.
Thân thiêp bơ vơ trên cảnh thế,
Hồn chàng dật lạc dưới Diêm đài.
Giay t́nh đó đă đem đâu mất,
Túi nghĩa đâu toan thắt chặt hoài.
Nắm đất vùi xương người bạc mạng,
Vái trời, vong giả đến Bồng lai.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 29 ngày 15-10-1932
Trăm ngày nhấp nháng bóng Thiều quang,
Sữa soạn rồi mơi bửa cúng chàng.
Hạc, Phướng, trai đàn xin chứng chiếu,
Kho, nhà, tụng niệm nguyện cầu an.
Vái trời tiếp dẫn qua Tây vức
Khẩn Phật rước đüa đến Niết bàn.
Anh hỡi! Anh ôi! Anh hỡi hỡi ...
Ḷng em đau đớn lụy ḥa chan
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 29 ngày 15-10-1932
Sườn núi nữa chừng hiếm đá veo,
Đường quanh lối hẹp nổng xen đèo.
Ồn ào suối nước nguồn trong vắt,
Yên rợp rừng ṭng đá mốc meo.
Vượn hú trên cây âm lănh lót,
Cọp gầm dưới trăng tiếng vang reo.
Trông chừng am động trên kia đó,
Ta, bạn lần ṃ ráng sức leo.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 29 ngày 15-10-1932
Cái thân đứng giữa cảnh trần ai,
Lần bước đường đời lắm gốc gai.
Ủạp đất tuôn bờ ḷng chẳng quản,
Ủội trời lướt bụi dạ khôn nài.
Dầm mưa, chải gió chờ thời đạt,
Hứng tuyết, vùi sương đợi vận lai.
Gắng sức vẩy vùng cùng thế sự,
Tung hoành bốn biển mới nên trai.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 32 ngày 5-11-1932
Cái gánh tang bồng nặng lắm thay,
Giang hồ trôi nổi đă lâu ngày.
Đau ḷng chạnh nhớ quê hương cũ,
Xót dạ bơ vơ đất khách nay.
Sầu luống chịu,
Thảm trông hoài,
Buồn riêng! riêng biết, cùng aỉ.
Cảm thương phận mẹ ngồi kề cửa,
Ĺa sống thân con lụy nhỏ dài.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 32 ngày 5-11-1932
Tấm thân lữ thứ dạ đâu vui,
Đất khách bơ vơ lụy sụt sùi.
Đêm vắng âu lo v́ xứ lạ,
Canh tràng ngao ngán nổi xa xui.
Tiếng gà eo ốc càng tha thiết,
Dọng dế ro re luống ngậm ngùi.
Nghĩ thảm! riêng than cho số phận,
Buồn này, có biết lúc nào nguôi.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 32 ngày 5-11-1932
Với chiếc thuyền mành dạo các châu,
Mặc ai khanh tể, kẻ công hầu.
Năm hồ ngang dọc ta giăng lưới,
Bốn biển tung hoành lăo bủa câu.
Mai sớm buôn tôm thành bắc Á,
Xế chiều bán cá chợ tây Âu.
Nam dương qua lại thường phao nhợ,
Thủy lợi toàn cầu sẽ tóm thâu.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 32 ngày 5-11-1932
Vào non kiếm động ẩn tu thân,
Chẳng mến vinh hoa lánh bụi trần.
Sớm tối công phu dằn trí dục,
Trưa chiều dưa muối giải ḷng sân.
Trước xem Cảm ứng noi chơn lư,
Sau tụng Huỳnh đ́nh định khí thần.
Nung đúc Phật tâm cho toại nguyện,
Ngày kia đắc quả cứu nàn dân.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 32 ngày 5-11-1932
Cái đời Kỵ nữ kiếp phù sanh
Trách lẩn thiên công nỡ tạo thành
Ủày phận đào tơ xa các tía
Trải thân liễu yếu dựa lầu xanh
Hoa tươi xinh đẹp người chen lấn
Nguyệt khuyết lu mờ khách vắng tanh
Cảm bấy mẹ cha ơn dưỡng dục
Dày son dạn phấn thẹn cho ḿnh
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 41 ngày 7-1-1933
Lần bóng trời hè dựa mái hiên
Bạn cùng tiều mục cảnh lâm tuyền
Non xanh vui ẩn dồi ḷng nghĩa
Động báu vào ra tập tánh hiền
Suốt tháng thung dung hằng khoái lạc
Quanh năm co dũi chẳng ưu phiền
Trà trưa rượu sớm ngâm thi phú
Thong thả riêng ta khỏe tự nhiên
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 41 ngày 7-1-1933
Cuộc đời trông thấy dửng dừng dưng
Giọt lệ từ tâm đỗ chẳng ngừng
Gióng trống gọi mê người khổ năo
Dộng chuông thức tĩnh khách gian truân
Miếng mồi phú quí không nên chuộng
Cái bă vinh hoa chớ vội mừng
Tập tánh cần tu xin cố gắng
Nâu ṣng thiện niệm khỏi trầm luân
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 41 ngày 7-1-1933
Một bước ra đi một bước dừng,
Đoái nh́n cố lư dạ khôn ngưng.
Lạy tŕnh cha mẹ ḷng dùng thẳng,
Từ giả anh em miệng ngập ngừng.
Ôm phận cơ hàn nương lẻ lạ,
Mang thân thất nghiệp cậy người dưng.
Nắng mưa nghĩ đến càng ngao ngán,
Nợ miệng hàng ngày phải cất chưn.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 64 ngày 3-7-1933
Rúc rắc mưa đêm đổ mái nhàc,
Một ḿnh thổn thức luống vào ra.
Ngoài tường giọy nước tuông tầm tả,
Trong trướng ḍng châu ướm nhỏ sa.
Dế khóc dưới thềm khêu dạ khách,
Lằn than trên vách gợi ḷng ta.
Vật c̣n biết căm người đâu chẳng.
Lỡ bước lưu ly chạnh xót xa.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
Số 64 ngày 3-7-1933Bao la bụi rậm một thân ta,
Cái túp liều tranh ấy cũng nhà.
Rán sức đốn cây tay chuyển động,
Ra tài gánh củi miệng ngâm nga,
Lên non lũ vượn hầu đưa đến,
Xuống suối bầy hưu đón rước qua.
Mưa sớm, nắng chiều ḷng sắt đá,
Lộc rừng no ấm dưỡng thân già.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
ngày 14-1-1933
Những loài nhền nhện cũng sanh tồn,
Tự lập dung thân đủ trí khôn.
Bủa sợi tơ ḷng phân vũ trụ,
Giăng dây chỉ ruột định càn khôn.
Ṭn ten lưới mảnh ngăn sương tiết,
Nhỏng nhảnh màng thưa đón vũ phong.
Dưới cỏ trên cây đều ở khắp,
Chẳng chừa dinh phủ chốn nha môn.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
ngày 26-6-1933
Cảnh Hoàng hôn (Bến đồn Mặc Cần Dưng)
Vừng ô khuất núi cảnh hoàng hôn,
Lũ lượt ghe buôn ghé lại đồn.
Lóm thóm ông câu lần khúc vịnh,
Lai rai con vịt đáp đầu cồn.
Trên bờ chộn rộn người lui tới,
Dưới nước lao xao sóng bủa dồn,
Trăng gát ngọn cây đưa khí lạnh,
Ta về tử lư bước bôn chôn.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
ngày 10-7-1933
Diệu vơ giao phuông chốn Thủy thành,
Thia thia tuy nhỏ cũng đua tranh.
Hứng đâm, giữ thế tài thao lược,
Trầm, khấu ra oai sức liệu oanh.
Vào trận vẩy vùng như cọp đói,
Phá vây xông trận tợ rồng doanh.
Đáp ơn v́ chủ than dầu nát,
Bền dạ trung can thế ngợi danh.
Huỳnh Văn Đoan
Năng Gù
Phụ trương Đuốc Nhà Nam
ngày 4-9-1933Trằn trọc năm canh lệ mấy hàng,
Thương t́nh cháu dại tách dương gian.
Nhớ lời để lại càng chua xót,
Thấy ảnh c̣n đây luống thở than.
Không lư Thiên đ́nh bôi lộn sổ,
Lẻ nào Địa phủ dám làm ngang.
Đầu xanh chưa tội trời đành giết,
Thúc phụ nguồi nguồi dạ chẳng an
Khóc Huỳnh Thị Khéo chết
Vui mừng bổn phận vợ chồng tôi,
Gặp muộn mà may cũng phỉ rồi.
Trước đẻ thằng trai đà đáng mấy,
Sau sanh đứa gái chửa ĺa nôi.
Cầu Trời bố đức nuôi mau lớn,
Nguyện Phật thi ân dưỡng cả đội.
Đến lúc nên người đây sẽ định,
Rước dâu, bắt rễ dủ th́ thôi.
Huỳnh Văn Đoan diễn âm quốc ngữ
!932Cội phước là tu khách tục ôi!
Nhắn cùng Nam, Nữ khá ghi lời.
Năm Hằng tập trí đừng xao lăng,
Tám Chánh trau thân ráng gắng dồi.
Dứt tánh Tham, Sân nhờ quả báo,
Bền ḷng thiện niện khỏi luân hồi.
Phù sinh mộng ảo trăm bề khổ,
Dầu đặng giàu sang thác phủi rồi.Danh lợi chiêm bao khách tục ôi !
Tu thân tích đức khá trau dồi.
Ruộng vườn ngh́n mẫu sanh không gửi
Vàng bạc trăm xe thác phủi rồi.
Gắng chí tŕ trai may đắc quả,
Giữ ḷng giới sát khỏi luân hồi.
Khí, tài, tửu, sắc đồ oan nghiệt,
Sa dắm làm chi lụy cả đời.Phật đường nương náu kiếp phù sinh,
Khổ hạnh tŕ trai dứt các t́nh.
Vườn trúc tầm chơn khi gió mát,
Ao sen nghiệm lư lúc trăng thinhj
Thời thời chẳng ngớt tay lần chuổi,
Buổi buổi đâu sai dạ tưởng kinh.
Ngày tháng dồi ḷng nơi Bát Chánh,
Mai sau đắc quả độ sanh linh.Chán chốn phồn hoa ẩ dưỡng thân,
Non tiên tu niệm luyện tinh thần.
Ao sen hứng cảnh say mùi đạo,
Vườn trúc nghe kinh lánh bụi trần.
Uống nước cam lồ tiêu nghiệp chướng,
Xuống thuyền Bát nhă khỏi trầm luân.
Cám thương khách tục c̣n mê mộng,
Nhắn nhủ cùng ai khá tĩnh lần.Thói đời đen bạc có ra chi,
Ngẫm nghĩ mà coi lắm chuyện kỳ,
Giàu có đầu non nhiều khách viếng,
Nghèo hèn giữa chợ ít ai v́.
Thằng ngu đặng thế người tưng trọng,
Kẻ trí không thời họ dễ khị
Tạo thế anh hùng nên kỉnh chuộng,
Anh hùng thế tạo chẳng ra ǵ.Bán hạ (半 下) bâng khuâng chạnh nhớ nàng,
Tiền hồ (前 胡 ) đă thệ nghĩa keo san.
Đào nhân (桃 仁 ) em hởi đừng xao lăng,
Quân tử ( 君 子 ) anh đâu dám phụ phàng.
Huyết kiện (血 健 )trong tim ǵn một mạch,
Châu sa ( 珠 砂 ) trên mặt đổ hai hàng.
Thiên niên ( 千 年 ) ghi dạ câu vàng đá,
Sanh địa (生 地 ) tầm phương cách phụng loan.Ghi chú (người sao lục): Hai chữ đầu mỗi câu là tên vị thuốc Bắc.
Một bước phiêu lưu một bước sầu,
Bơ vơ đất khách lụy thâm bâu.
Tháng ngày nhớ mẹ buồn tha thiết,
Sớm tối thương thân chịu dăi dầu.
Đói cậy bạn cho tiền gạo muối,
Thiếu nhờ người giúp thuốc, cao, trầu.
Ma nghèo đeo đuổi theo chi măi.
Nên tránh xa ta để cất đầu.Nghĩ suy đáo để có ra chi,
Tráo chác t́nh đời gẫm rất kỳ.
Nhiều bạc anh em càng hội họp.
Không tiền ruột thịt lại phân ly.
Miệng lằn uốn éo lời cao hạ,
Lưỡi mối quanh co tiếng thị phi.
Thế thái con người thựng vậy vậy,
Dại khôn thiên hạ cũng vân vi.Danh mà chi, lợi chẳng mà chi!
Ăn ở ḿnh tua giữ lễ nghi.
Tập nết hiền lương không kẻ ghét,
Trau ḷng nhơn đức lắm người v́.
Mặc ai giàu có đừng bưng bợ,
Với bạn nghèo hèn chớ dễ khi.
Cơm tẻ nước trong hằng khoái dạ,
Một niềm thành thật khá nên ghi.Ruột tầm vấn vít nợ ba sinh,
Đất khách cưu mangmột chữ t́nh.
Nhớ lúc kề vai vui gió mát,
Chạnh hồi hiệ/p mặt ngắm trăng thinh.
Khúc đàn cung óan nghe nao trí,
Chén rượu quan san nhấp bực ḿnh.
Diệu vợi ôm thề long chẳng đổi,
Keo sơn gắng chặt dạ đinh ninh.Bóng nguyệt mờ mờ khuất rặng mây,
Cảnh khuya thơ thẩn một thân này.
Phất phơ gió thổi lay bông cỏ,
Lát đát sương sa phủ lá cây.
Hơi hát ngư ông hơi nhụ nhựa,
Giọng ḥ thương khách tiếng khoan thai.
Giải buồn tức cảnh không khuyây được,
Thêm dế ngâm sầu xót dạ đây.Thong thả tiêu dao toại chí ta,
Nhàn thân say ngủ, tỉnh ngâm nga.
Nưng ly rượu cúc b́nh thiên hạ,
Nhấp trảng trà sen luận quốc gia.
Gió mát cầm kỳ vui ngắm cảnh.
Trăng trong thi phú muộn xem hoa.
Trên đời lắm thú chơi tao nhă,
Nhắn khách phong trần chớ bỏ qua.Rốt bửa ba mươi pháo nổ ́nh,
Chào Xuân thiên hạ thảy hoan nghinh.
Cờ treo phất phới màu tam sắc,
Đèn thắp lăn xăn bong tứ linh.
Muôn vật thái b́nh chim trổi giọng,
Trăm hoa đua nở bướm khoe ḿnh.
Lượt là đen đỏ đoàn ba bảy,
Lui tới mừng nhau chúc thái b́nh.Chiều ra băi biển dạo xem chơi,
Mặt nước minh mông sắc tiệp trời.
Gió thổi vừng mây bay thấm thoát,
Sóng đùa dề cỏ ră tơi bời.
Tới lui du khách lần trên mé,
Cấn giác ngư ông vượt giữa vời.
Quá bước ác vàng đà dấu bóng,
Trở về trăng chiếu sang đ̣i nơi.Nầy em mang tiếng cũng v́ chàng,
Biết nói làm sao đặng chửa hoang.
Vạt áo so le hơn một tấc,
Giây lưng thắt chặt hụt vài gang.
Chung t́nh chất chứa càng thêm nặng,
Mối thảm vày ṿ chóng nở nang,
Khi hiệp khi tan ai khiến nỗi,
Cuộc cờ rắc rối thiếp lần toan.Đêm thu ngồi ngắm cái quỳnh hoa,
Ngào ngạt mùi thơm khắp cả nhà.
Cánh nở sè sè màu tợ ngọc,
Nhị đơm tủa tuả sắc như ngà.
Gió đưa lúc lắc dường chào khách,
Sương thắm êm đềm thể mến ta.
Nhè nhẹ nưng hoa hoa quyến luyến,
Ấp yêu hương vị măn canh gà.Sánh với thiên công cũng bực nh́,
Điểm tô cảnh sắc có thua chi.
Da trời mặt đất coi in vậy,
Sườn núi long sông ngắm khác ǵ.
Cầm thú ngư tiều đều tạo đủ,
Vân tinh nhật nguyệt thảy làm y.
Bốn mùa nhân vật không thay đổi,
Sanh tử c̣n nhường sức hóa nhi.Lên non ẩn dật chốn rừng già,
Vui thú nâu song hạnh Thích Ca.
Tuyệt dục tầm chơn đành cắt ái,
Trưuờng trai luyện đạo phải ly gia.
Tham thiền thức tang suy tri bản,
Nhập định minh tâm luận giác tha.
Dựa cội Bồ đề lần chuỗi hột,
Chờ ngày đắc quả ngự liên ṭa.
Phụ Lục
Hởi ôi !!
Máy âm dương xoay trở, luật tạo hóa vô tư
Đường sanh tử mất c̣n, sổ Nam Tào nan thức.
Mây che non tị, khuất bóng thiên thu
Sương phủ nhà huyên đến tuần bá nhựt.
Nhớ mẹ xưa !
Tánh hạnh hiền ḥa,
Công ngôn chánh trực.
Việc đối đải với làng với xóm, chẳng đổi hai lời,
Sự ở ăn cùng chị cùng em, cứ ǵn một mực.
Con côi tám đứa, mẹ chí công nuôi dưỡng hằng lộ vẻ vui mừng,
Thân góa một ḿnh, mẹ gắng sức dạy răn chẳng hề than khó cực.
Dạy con gái nấu nướng vá may công hạnh mọi đường,
Cho con trai học hành chữ nghĩa nghiệp nghề đủ bực.
Trai bốn thằng mẹ cưới vợ hai thằng, c̣n hai không cưới kịp cho xong,
Gái bốn đứa mẹ gả chồng ba đứa, c̣n một chưa gả rồi cho phức.
Ở cùng dâu mẹ chẳng rầy rà,
Đối với rể mẹ hằng khuyên dứt.
H́nh mẹ mới vừa già, tóc bạc hoa râm, răng chưa rụng, mắt chưa ḷa, con tưởng chẳng yếu đau,
Vóc mẹ mới vừa ốm, da mồi lốm đốm, gối không dùng, tai không lăng, con ngỡ c̣n sức lực.
Khoản hai mươi ba năm giữ tiết thờ chồng, làng xóm ngợi khen, con nở mặt mừng vui,
Tuần sáu mươi bảy tuổi về quê bỏ cháu, con dâu thương tiếc, mẹ đành ḷng gắp bức.
Ôi !!!
Nhớ mẹ ủ ê!
Đau ḷng bức rức!
Trời xui chia rẽ con ở trần gian,
Phật vội kêu đ̣i mẹ về Tây vức.
Tây vức mẹ về ngàn thuở tiêu diêu,
Trần gian con ở trăm năm buồn bực.
Mẹ đau năm bảy tháng con lo nuôi dưỡng, thuốc cơm không đáng kể sự công lao,
Mẹ thác ba bốn ngày con để quảy đơm, dưa muối chưa phỉ đền ơn cúc dục.
Con nuôi mẹ kể giờ kể khắc, thiếu nghĩa thiếu t́nh,
Mẹ nuôi con quên tháng quên ngày, đại ân đại đức.
Nhiều khi con cám thương phận mẹ, chịu phần đơn cô,
Lắm lúc con sầu tủi đoàn con, cam bề côi cúc.
Sớm đón gió, chiều nh́n mây, gió lặn mây tan, ngậm ngùi bấy xót ḷng con trẻ luống ai hoài,
Đêm trông sao, ngày ngắm cảnh, sao dời cảnh đổi, bâng khuâng thay thương phận mẹ già càng thốn thức.
Khi ngày qua, giờ lại, ngồi buồn bả tay khoanh trói gối chợt thấy nhền nhện bủa tơ sầu, biếng canh biếng dệt, hay là nhện cũng v́ khổ chủ đeo phiền,
Lúc đêm lụn canh tàn nằm nghĩ suy tay gác ngang đầu nghe thằn lằn chắt lưỡi thảm, biếng chạy biếng ḅ, hay là lằn cũng v́ tang gia than tức!
Quá chạng vạng nghe dế ngâm ru rít dưới thềm, nhớ những thuở mẹ khuyên con thức học hành cho bằng anh bằng em, gắng chí gắng công,
Vừa bửng tửng nghe gà gáy ốc eo ngoài vách, nhớ những thuở mẹ kêu con đi làm lụn cho kịp th́ kịp tiết, bền ḷng bền sức.
Nhớ nhung áo năo khôn cùng thương mến, con đổ ḍng châu,
Đau đớn âu sầu chi xiết kỉnh thờ, mẹ trong nét mực.
Hằng ngày con dưng nước, dưng hương, dưng cơm hai bửa chẳng thấy mẹ về ăn con hằng vái hằng van,
Thường bửa con thay trầu thay cau thay thuốc ba lần chẳng thấy mẹ về hưởng con thường chầu thường chực.
Ôi !
Thảo phải ba tuần rượu lạt tấm ḷng con xin kỉnh hiến dưng,
Đơn sơ một cỗ cơm thô, hương hồn mẹ có linh thọ thực.
Đinh sửu niên, Trọng thu nguyệt, Sơ thập nhật
Văn tế tuần bách nhật, Huỳnh Tạo Đoan tế mẹ
Huỳnh Tạo Đoan tự tác.
Đinh Sửu, Trọng Thu ngày mùng 10 nhằm năm 1937
của Huỳnh Văn Đoan tế mẹ. (Ghi chú: Hai ḍng này do tác giả ghi trong bản Quốc ngữ)
Nguyên văn bản chữ Nôm là thủ bút của tác giả