LĂNG NGHIÊM THIỂN DỊCH

 

QUYỂN CHÍN

 

            Này A Nan! Thế gian có người tu tâm, nếu không tu tập thiền na thì không có trí tuệ, nếu thường giữ thân như ngọc, không làm các việc dâm dục, cho đến cả khi đi, đứng, nằm, ngồi cũng không khởi lên niệm dâm dục, không khởi lên cái tâm ái nhiễm thì không lưu tại dục giới, vị ấy lúc sắp chết liền hoá sanh đến Phạm chúng thiên thuộc cõi sắc giới, mình cao bốn mươi dặm, thọ mạng hai mươi tiểu kiếp. Tập khí của dâm dục đã diệt trừ hết, cái tâm ly dục cũng thanh tịnh, đối với hết thảy luật nghi cũng thực tiển, thân tâm khinh an, có cái đức của Phạm thiên, vị ấy từ Phạm chúng thiên có thể tiến thẳng đến Phạm phụ thiên, mình cao tám mươi dặm, thọ bốn mươi tiểu kiếp. Do tu thân mà nhiếp tâm, thân tâm như một, diệu giới tròn đầy, trong đi, đứng, nằm, ngồi không thiếu oai nghi, từ giới sanh định, từ định phát tuệ, vị ấy thường thống lãnh phạm chúng, tức thời siêu thăng đến cõi Đại phạm thiên, làm Đại phạm thiên vương, mình cao một trăm hai mươi dặm, thọ mạng sáu mươi tiểu kiếp. Này A Nan! Ba cõi trời ấy, tuy rời khỏi ái dục chỉ còn có sắc chất, do đó nên gọi là sắc giới thiên. Thiên nhơn ở đó, thân thể màu bạc trắng, mặc y phục màu vàng ròng, tướng mạo như đồng tử, toàn là nam chúng, hoàn toàn không có nữ chúng, ở trong tứ thiền thuộc cõi trời sơ thiền, bốn khổ, tám khổ không thể đe doạ. Vị ấy, tuy không phải thật chánh định nhưng trong tâm thanh tịnh, không bị nghiêng động bởi các thứ lậu, ở trong địa thứ chín gọi là Ly sanh hỷ lạc địa.  

            Này A Nan! Cõi trời Phạm chúng đã hiển lộ giới đức; cõi trời Phạm phụ trong giới có định; cõi trời Đại phạm thì đầy đủ giới, định, tuệ làm vua của cõi trời Đại phạm, thống lãnh phạm chúng, sau khi phạm hạnh tròn đầy, tâm như nước lặng, tịnh cực điểm sinh ánh sáng, thân cao một bước gọi là Thiểu quang thiên, mình cao một trăm sáu mươi dặm, mạng sống bốn đại kiếp. Sức mạnh của định sâu dần, hào quang của thân với hào quang của tâm lấp lánh chiếu lẫn nhau, chiếu sáng vô tận, chiếu đến một tiểu thiên giới, cả mặt đất biến thành lưu ly gọi là Vô lượng quang thiên, mình cao ba trăm hai mươi dặm, mạng sống bốn đại kiếp. Hấp thu hào quang giữ gìn tròn đầy, lấy hào quang làm giới thể, lấy thanh tịnh hoá chúng sanh, lấy quang âm làm Phật sự, hào quang sẵn có ứng dụng không hề cùng tận, gọi là Quang âm thiên. Này A Nan! Ba cõi trời ấy, so với sơ thiền thì cao hơn nhiều, cõi trời sơ thiền chỉ mới rời khỏi khổ đau của ái dục, còn sợ hãi bị đoạ xuống, đương nhiên là còn chút dáng dấp bất an, nhưng ba cõi trời ấy mọi lo buồn hoàn toàn không bức bách được vị ấy bởi đã chứng nhập cảnh giới vô giác vô quán nhưng vô giác vô quán vẫn là hữu lậu, không phải dựa vào chân tâm thường lặng mà tu tập, không thật chánh định chẳng qua là ở trong tâm thường thanh tịnh phạm hạnh, các phiền não thô đã bị chế phục, không bị khởi lại hiện hành, vì thế gọi là nhị thiền, lại lấy công đức của định lực, phát sinh hỷ lạc, hoả tai tuy không thể đến nhưng lại sợ thuỷ tai, do vì trong tâm còn có nước hỷ, ở trong địa thứ chín gọi là Định sanh hỷ lạc địa.   

            Này A Nan! Nhị thiền thuộc Quang âm thiên, hào quang đã tròn đầy, lấy hào quang mà thành tựu âm thanh để làm giáo thể, phát ra âm thanh hiển bày diệu lý, ở thiền thứ ba, nương vào diệu lý, càng phát ra nhiều hành vi tinh tấn hơn, đã buông bỏ cái tâm hỷ, thủ đắc tịnh lạc, gần với cảnh giới tịch diệt lạc, chỉ là bắt đầu chế phục thức thứ sáu mà thôi, không phải là chân tịch diệt, cõi trời ấy gọi là Diệu tịnh thiên, mình cao một ngàn hai trăm tám mươi dặm, thọ mạng mười sáu đại kiếp. Thiểu tịnh thiên tuy gần ở tịch diệt lạc, nhưng chưa quên tịnh cảnh, tiến thêm một bước nữa, định lực chuyển sâu, tịnh cảnh cũng không, lấy không mà dẫn tịnh, tịnh giống hư không, hư không là vô biên, do vậy, tịnh cảnh cũng là vô biên, lúc ấy thân tâm khinh an, như hư không bao la không ngăn ngại, thành tịch diệt lạc, vì lấy hư không vô lượng nên gọi là Vô lượng tịnh thiên. Chúng sanh tại đây, mình cao hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm, thọ mạng ba mươi hai đại kiếp. Tịnh cảnh của Vô lượng thiên chỉ có ở thân tâm, tiến thêm một bước, định lực càng sâu, lúc ấy thân tâm chánh báo cho đến thế giới y báo hợp thành một thể, đều đắc hư tịch, thanh tịnh, tròn đầy, thành tựu cái đức thuần tịnh, lạc vô cùng thuộc hữu lậu, thù thắng ký thác ở chỗ hiện tiền, cho đấy là cái chỗ an thân lập mệnh chân thật, quê hương của cực lạc tịch diệt chỗ nào cũng tịnh lạc gọi là Biến tịnh thiên. Chúng sanh ở cõi trời này, mình cao năm ngàn haimươi dặm, thọ mạng sáu bốn đại kiếp. Này A Nan! Sơ thiền thì khổ não không bức bách, chưa được tuỳ thuận; nhị thiền thì ưu não không bức bách, năm uẩn đã chế phục, được tuỳ thuận; bây giờ tam thiền thì đã đắc tịch diệt, đã chế phục sáu thức gọi là Cụ đại tuỳ thuận, thân tâm an ổn, đắc vô lượng lạc, tuy không hoàn toàn chánh định, nhưng trong tâm đầy đủ hoan hỷ gọi là Tam thiền thiên, hai tai nạn nước, lửa không thể đến được mà chỉ sự tai nạn gió, chưa rời khỏi hơi thở vào, hơi thở ra do vì đã buông xã hỷ của thiền thứ hai mà đắc diệu lạc, ở trong địa thứ chín gọi là Ly hỷ diệu lạc địa.  

            Này A Nan! Ba loại thiên nhân trên, không còn bị khổ, ưu não bức bách vì nhân của khổ đã hết. Lúc tiến nhập thiền thứ ba đạt đến vô lượng lạc, nhưng lạc cũng vô thường, một ngày nào đó hưởng hết phước báo thì lạc cũng không còn. Khổ với lạc đều tương đối, nếu như xã ly cả hai tâm lý khổ và lạc thì những phiền não thô nặng không phát sinh theo, khi ấy liền sanh khởi phước đức thanh tịnh gọi là Phước sanh thiên. Chúng sanh ở đó mình cao một vạn dặm, mạng sống một trăm hai mươi lăm đại kiếp. Hai thứ tâm lý khổ lạc nếu xã ly thì công phu thuần thục, thành tựu tín tâm quyết định phước đức thanh tịnh không bị che mờ, từ đây về sau mong muốn tuỳ tâm đạt đại tự tại gọi là Phước ái thiên. Chúng sanh ở đó mình cao hai vạn dặm, mạng sống ba trăm năm mươi đại kiếp. Này A Nan! Từ Phước ái thiên đi ra có hai con đường: Đường thứ nhất là con đường lớn, từ con đường này đến Quảng quả thiên, nếu như lúc ở tại Phước ái thiên, ở trong vô lượng hào quang thanh tịnh mà lấy tứ vô lượng tâm huân tập htiền định thì phước đức gia tăng đến viên minh, rời khỏi các pháp nhiễm, tu thiền chứng tịnh liền nhập vào Quảng quả thiên. Chúng sanh ở đó mình cao bốn vạn dặm, mạng sống năm trăm đại kiếp. Khi kiếp hoại, ba tai nạn nước, lửa, gió không thể đến, do vì hai thứ tâm lý khổ lạc đều đã buông xã, ở trong địa thứ chín , gọi là Xã niệm thanh tịnh địa. Con đường thứ hai là con đường quanh co, từ con đường này đến cõi trời vô tưởng, nếu như khi ở tại cõi trời Phước ái, đã nhàm chán khổ, lại còn nhàm chán cả lạc, tinh cần tu tập xã thiền định mãi mãi không ngừng, tư duy về nghĩa lý của xã đến cùng tột cho rằng xã định chính là Niết bàn. Khi ấy cả thân tâm đều diệt, cái gọi là thân hình như cây khô, tâm như tro lạnh, cái thức thứ sáu ở trong xã định như băng ép cá, hiện hành không khởi, trãi qua năm trăm đại kiếp, nắm giữ cái tâm xã định thì báo thân không hư hoại . Sau năm trăm đại kiếp, sáu  thức lại khởi lên hiện hành, vọng tưởng lung tung, trở lại luân hồi, các thú xứ trở lại như cũ, hoặc có thể đoạ vào địa ngục do vì khi ở trong xã định chưa chứng nói chứng, cho rằng đã đạt đến quả vị A-La-Hán, đã thoát ly phân đoạn sống chết. Sau khi xuất định thì mới biết là vẫn chưa đoạn trừ hết sống chết rồi huỷ báng tam bảo, vu rằng Như Lai nói pháp cuồng vọng, cứ lấy nhân duyên huỷ báng Phật như vậy thì hầu hết đều bị đoạ vào địa ngục . Đồng thời vị ấy có xuất định, có nhập định, có xuất có nhập là có sinh, có diệt, đã lấy sinh, lấy diệt làm nhân thì không thể chứng ngộ được cái chân tính của bất sinh, bất diệt, cơ bản là nương nhầm vào thức thứ sáu  thuộc sống chết, vì cái nhân của bổn tu miễn cưỡng khiến cho cái tâm ngưng lạnh nên không thể tham cầu tính không sanh diệt của thức tinh nguyên minh trong lắng. Lúc ban đầu sanh vào cõi trời đó, trước hết là tu tập xã định, dụng công nửa kiếp mới đắc tưởng diệt, thành vô tưởng định, đến một nửa của bốn trăm chín mươi chín kiếp thì tưởng tâm lại khởi lên mất vô tưởng định. Tóm lại, cõi trời ấy nương ở xã thiền, diệt trừ tâm pháp và tâm sở pháp của sáu  thức, khiến cho hiện  hành không khởi, do vậy nên gọi là Vô tưởng thiên; là quả vị cao nhất của thiền ngoại đạo. Này A Nan! Bốn cõi trời thuộc tứ thiền, tất cả cảnh giới khổ lạc của thế gian không thể làm cho nghiêng động, ba tai nạn lớn, nhỏ đều không xâm hại được, khi chư vị vừa sanh vào các cõi trời ấy thì cung điện, vườn rừng cũng tuỳ đó mà sinh, khi chư vị chết thì cung điện, vườn rừng cũng tuỳ đó mà diệt, do đó mà không phải là cảnh giới chân thường, lấy thanh tịnh, tâm không phiền nhiệt, mình cao tám vạn dặm; mạng sống một ngàn đại kiếp. 

            - Hai là Vô nhiệt thiên, cõi trời này chỉ có một niệm xã, hoàn toàn không có các tạp niệm khác, đối với xã niệm phải có năng lực thu vào và năng lực phóng ra, tìm cho ra cái xã niệm là điều không thể hiểu được, chẳng những không bị mâu thuẩn ở trong lòng, dù cho có muốn mâu thuẩn cũng không có môi trường để mâu thuẩn, do vậy mà không có nhiệt não nhỏ nhiệm. Cõi trời này, thân của chúng sanh cao mười sáu vạn dặm, mạng sống hai ngàn đại kiếp.  

            -Ba là cõi trời Thiện kiến, cõi trời này nhờ tu thiền mà phát thiên nhãn thông, tròn đầy, trong sáng, khéo nhìn thấy đại thiên thế giới, không có cảnh tượng trần làm chướng ngại cho vị ấy, tâm lý cũng không chìm đắm trong cấu niệm. Chúng sanh cõi trời này mình cao ba mươi hai vạn dặm, mạng sống bốn ngàn đại kiếp.  

            -Bốn là cõi trời Thiện hiện, cõi trời này thiên nhãn đã đạt hiện tiền, lại kiêm tu tĩnh lự, thấy cái thể đã đắc thanh tịnh, thấy cái dụng đã cùng khắp, chính như người nấu sắt, lấy đất làm cốt liền thành vật đúc, lại như người đúc vàng, lấy vàng tạo tượng, tượng cũng thành tựu, thường lấy sức mạnh của Định, Tuệ mà nhiệm vận biến hiện ra hết thảy cảnh giới. Chúng sanh cõi trời này mình cao sáu mươi bốn vạn dặm, mạng sống tám ngàn đại kiếp.     

            -Năm là cõi trời Sắc cứu cánh, là cõi trời cao nhất của sắc giới, đối với hết thảy chúng sanh ở cõi trời này, một số giáo lý nhiệm mầu nghiên cứu đến cùng lý, có khả năng lấy nhiều niệm quy về một niệm, lấy vô lậu huân tập hữu lậu đến cùng cứu của hết thảy sắc pháp, từ sắc tính  ngộ nhập không tính, sắc nương vào không mà hiện, không tính chính là cái tính của sắc tính, cái tâm đã được huân tậptừ nhiều đến ít, sắc cũng từ thô đến tế, cùng cứu đến cái thân tuy vẫn còn nhưng cảnh giới thì toàn không, tiến nhập cái chỗ hư không không bờ mé, đến cái chỗ rốt ráo của sắc giới  Chúng sanh cõi trời này mình cao một trăm hai mươi tám vạn dặm, mạng sống mười sáu ngàn đại kiếp.  

            Này A Nan! Ngũ bất hoàn thiên là cảnh giới cao nhất, diệu nhất trong sắc giới, chỉ có bốn vị Thiên vương của cõi trời tứ thiền, thì mới biết được đôi chút về cảnh giới của chư vị nhưng vẫn không nhìn thấy chư vị. Do vì từ tứ thiền trở xuống, đều là phàm phu hữu lậu, phàm phu thì chỉ có thể chế phục hoặc mà không thể đoạn trừ hoặc, nhưng Ngũ bất hoàn thiên là bậc thánh vô lậu đã đoạn trừ hoặc, thánh phàm khác nhau, do đó chỉ có ngưỡng mộ tiếng tăm của chư vị chứ không thể biết về thọ dụng của chư vị, cho đến cả việc không hay biết về chánh báo và y báo của chư vị, tức là như người đời quê mùa của chúng ta làm sao mà có đạo tràng xuất thế của các bậc thánh, nhưng chỉ có hàng A La Hán mới được tu trì tại đó, còn người thế gian thì làm thế nào có thể nhìn thấy chư vị? Này A Nan! Mười tám loại Phạm thiên ấy, đều thanh tịnh, không có bạn lữ, cũng không có sự tình giao hợp chỉ có thân thể thuộc hoá sanh, vẫn chưa thể thoát khỏi mọi phiền luỵ của hình hài, vì thế nên gọi là Sắc giới thiên.    

            Này A Nan! Từ chót đỉnh của sắc giới, cái chỗ bờ mé giữa sắc với không, trong đó có hai con đường. Nếu ở cõi trời sắc giới, khi tu tập xã định phát khởi cái trí nhơn không vô lậu, trí sáng tròn đầy liền có thể vượt ra khỏi trần giới, đoạn trừ phân đoạn sống chết thành A La Hán. Có người không lấy việc chứng đắc tiểu quả A La Hán làm đầy đủ, phát tâm tiến thêm một bước, tu đạo Bồ tát, chính là vị A La Hán hồi tâm. Nếu ở tại sắc giới khi tu tập xã định thành tựu, yểm ly sắc, muốn diệt sắc về với không, nhàm chán cái sắc thân với nhiều chướng ngại, vị ấy ra sức mong muốn diệt trừ chướng ngại của thân hình mà đắc không định. Cõi trời Không vô biên xứ, thọ mạng hai vạn đại kiếp, do vì cõi trời tứ không đều không có nghiệp quả của sắc, vì thế nên không có đến thân hình cao thấp. Đạt đến cảnh giới này thì đã nhàm chán sắc trở về nơi không rồi tiến thêm một bước nữa, ngay cả cái không ấy cũng nhàm chán luôn, mà chỉ nương ở thức bảo lưu A Lại Da, nhưng Mạt Na thì giữ lại nửa phần. Nhân vì thức thứ sáu một mực nương vào Mạt Na, nay sắc với không đều diệt nên Ý thức không thể đem Mạt Na làm ý căn được, vì thế, Mạt Na chỉ còn một nửa hướng ra ngoài phan duyên và cũng không có chỗ gởi gấm; chỉ lưu lại nửa phần của Mạt Na để phan duyên với thức thứ tám A Lại Da. Cõi trời ấy gọi là cõi trời Thức vô biên xứ, mạng sống bốn vạn đại kiếp. Sắc với không đã diệt ngay cả nửa phần nhỏ nhiệm của Mạt Na  cũng bị sức mạnh cao sâu của định chế phục không khởi lên hiện hành, chỉ còn đơn độc lưu lại A Lại Da, thức ấy không phân biệt. Khi ấy chỉ cảm giác rằng mười phương đều mờ mờ tịch lặng, không đường để mà đi, cũng không nghĩ đến việc trở lại mong cầu tiến lên, người đạt đến giai đoạn ấy, một số nhận là minh đế, kỳ thật thì đó là cõi trời Vô sở hữu xứ, nhân vì sắc, không với thức đều cảm giác không có sở hữu, thọ mạng của cõi trời ấy sáu  vạn đại kiếp. A Lại Gia thức vốn bất động, nhưng hết thảy phàm phu không hiểu rõ đạo lý ấy chỉ thấy A Lại Gia kiên cố không thể lay động rồi lấy sức mạnh của diệt tận định, tư duy sâu sắc, biết không thể quét sạch trong A Lại Gia rồi miễn cưỡng muốn quét sạch nó, kỳ thật thì A Lại Gia là Như Lai tạng tính, chẳng kể là bậc thánh hay là phàm phu đều không thể quét sạch. Dù cho đã thành Phật, bản thân của A Lại Gia là chủng tử thức, chủng tử thì không có cùng tận, chẳng qua là chủng tử nhiễm ô của phàm phu, còn Phật thì chủng tử thanh tịnh nên hiện hành cảnh giới thanh tịnh, ở vị lai   tế không ngừng lợi ích cho chúng sanh, do đó, A Lại Gia không cần phải quét sạch. Nhưng cõi trời ấy không lấy định lực áp bách nó để nó không khởi hiện hành, hiện hành tuy không khởi nhưng thức tính vẫn còn, đến giai đoạn này thì A Lại Gia như tồn tại như không tồn tại, tợ như hết mà không hết, cũng như ngọn đèn tàn,  nửa sáng nửa diệt nên gọi là cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chúng sanh ở đó mạng sống tám vạn đại kiếp . 

            Tứ không xứ thiên ấy, một ắt cùng sắc khiến tiêu; hai ắt cùng không khiến vô; ba ắt cùng thức khiến diệt; bốn ắt tính khiến tận; hai cõi trời trước ắt cùng cảnh; hai cõi trời sau ắt cùng tâm, muốn cho tâm cảnh đều không nhưng không liễu giải giáo lý không cái gọi là không, phàm phu không biết nhơn không, La hán không biết pháp không, mà Phật giáo thì việc viên đốn, cần hiểu sâu sắc tâm với cảnh vốn là không tự tính, há lại chờ ông làm cho chúng sanh thành không?  Nếu như từ Ngũ bất hoàn thiên tu tập thánh đạo, lấy định lực cùng không để đoạn trừ ba mươi sáu phẩm tư hoặc liền có thể chứng đắc Nhơn ngã không thành A La Hán vượt khỏi ba cõi. Nhưng một loài ấy vẫn không hồi tâm chỉ là độn căn A La Hán mà thôi. Nếu từ trong cõi trời vô tưởng một đường cùng không kinh qua Quảng quả thiên, duy chỉ tu tập thiền định hữu lậu, không biết quay đầu, mê ở cõi trời hữu lậu thực hành sai tưởng vô vi, lại không chịu thân gần với thiện hữu tri thức, đóng cửa tạo xe, không biết bên trong ba cõi hoàn toàn không có cái chỗ để cho chúng ta an thân lập mệnh, vì thế hết tám vạn kiếp, cuối cùng là rơi vào quên không, chính là ý nghĩa như vậy.   

            Này A Nan! Lục dục thiên, tứ thiền thiên và tứ không thiên đã nói ở trên, ngoại trừ Ngũ bất hoàn thiên là chỗ trú của bậc thánh tam quả. Các cõi trời khác, đều là phàm phu lấy nghiệp lành làm nhân để tu tập, đạt được quả lành, đến lúc hết quả lành thì lại rơi vào luân hồi như cũ, đi vào các thú xứ.  

            Thiên vương của các cõi trời đều là Bồ tát đại thừa, ở trong chánh định, lấy du hý thần thông mà trú vào địa vị Thiên vương để lợi ích cho mọi loài, thành tựu công đức cho chính mình, tăng tiến dần dần rồi hồi hướng về con đường chân chính mà Như Lai đã tu hành, một mực hướng đến chánh quả Bồ đề Niết bàn. Bốn loài trời không xứ ấy, hai cõi trước thì thân cảnh toàn không, là diệt tận thân; hai cõi trời sau ắt là thức cũng không khởi lên, là tâm diệt tận, thân và tâm đều diệt thì định tính được hiện tiền, tuy đã rời khỏi sắc giới, không còn nghiệp quả chánh báo của thân, cũng không nương vào cảnh của y báo, nhưng ở trong định vẫn còn tuỳ ý hoá thành cảnh của y báo và thân của chánh báo nhưng tự tại thọ dụng, vì thế mà có định quả thuộc sắc. Từ cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ trở lên đều gọi là Vô sắc giới. Nhơn thiên ở đó lấy sự không liễu đạt cái chân tâm sáng suốt nhiệm mầu vốn có, từ mê nhập mê, đã vọng càng thêm vọng, liền dẫn khởi cái tướng nghiệp vô minh thường thấy chuyển tướng, cho đến vọng hiện các hiện tướng của hết thảy cảnh giới, từ tam tế ấy lại dẫn khởi sáu cái tướng thô, hoặc với nghiệp đều sẵn sàng, do đó mà giả có ba cõi, ở trong ba cõi lại vọng tuỳ nghiệp lực của tự thân trầm luân trong bảy thú xứ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tu la, nhơn, tiên, thiên, thú xứ thọ sanh, tuỳ theo mỗi loài mà nhận quả báo.  

            Này A Nan! Trong ba cõi còn có bốn loài A tu la, còn gọi là Phi thiên, Phi thiên thì có phước của thiên mà không có đức, nữ tu la thì tướng mạo đoan chính, còn nam tu la, đa số thì xấu xí, thường ưa thích uống rượu nên phẩm tính nhiều sân, nhiều đố tật. Một loài từ trong quỷ đạo đến nhưng lại có thiện nguyện, thiện tâm hộ trì Phật pháp, hoặc là hộ trì kinh, chú, hoặc là hộ giới, hoặc hộ thiền định, do sức mạnh của nghiệp lành mà xã ly quỷ đạo, lấy sức mạnh của quỷ thông mà vào cư trú trong hư không giới, loài tu la ấy, từ trứng mà sanh. Vì vậy mà có khả năng bay nhảy trong hư không, thuộc vào một loại quỷ đạo. Loại thứ hai là từ trong thiên đạo tới, nhân vì cõi trời dục giới,  lấy ít dục làm đức, cõi trời sắc giới thì lấy phạm hạnh mà giữ cái thân, nếu như phạm hạnh thối thất thì nặng tình dục liền bị ra khỏi thiên đạo, rơi xuống tu la đạo. Nhưng phước báo cũng tương tự như thiên đạo, chỗ ở gần với cung điện mặt trời, mặt trăng, có vua tu la, ở một bên của núi Tu di, ở trong dục giới, tuỳ ý mà biến hiện ra thân thể lớn nhỏ. Loại Tu la ấy, sau khi bị rơi xuống có cảm giác thai sinh, tình dục giống như con người do vậy mà thuộc vào một loài của nhân đạo. Loài thứ ba là từ nhân đạo đến, nhân vì khi ở trong nhơn đạo, có cái tâm lập công, lập nghiệp không được tuỳ tâm, anh hùng không có chỗ dụng võ, sân hận, tật đố mà chết. Do vậy mà cảm giác làm vua A tu la, phước báo cũng như thiên nhơn, sai khiến quỷ thần, hoạ phước nhân gian, lấy sức mạnh của thần thông thấu các cõi trời, không sợ hãi bất cứ chỗ nào, chỉ vì Phạm thiên vương là chủ tiểu thiên thế giới trên thiên Đế thích và cõi trời ba mươi ba, tứ thiên đại vương, có chuyên ty riêng, A tu la lấy cái tâm đố kỵ nên không nhận sự thống trị, lại còn muốn chiếm đoạt quyền lực của chư thiên, thường hay gây chiến, Tứ thiên vương thua trận báo lên Đế thích; Đế thích thua trận thì xin binh nơi Phạm vương ra binh ứng chiến, A tu la thua trận bỏ trốn. Loài tu la ấy từ nhân gian hoá sanh lên cõi trời, do đó mà thuộc vào một loại thiên đạo. Loại thứ tư là đến từ súc sanh đạo, loài tu la này phước đức rất mỏng là một loại thấp kém nhất trong A tu la, chúng tự thực tuy được ăn nhưng khi thức ăn vừa vào đến miệng, toàn là thức ăn ngon nhưng cuối cùng lại biến thành mùi vị của bùn. Chúng sanh ở trung tâm biển lớn tiềm tàng nơi thuỷ huyệt, trời sáng, chúng du hành giữa hư không, tối về ngủ dưới nước để nghỉ ngơi, nhân vì từ thấp khí mà sinh, do đó chúng thuộc một loài súc sanh đạo.  

            Này A Nan! Trên đây là bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhơn, tiên, thiên đạo, nghiên cứu tường tận chúng đều là hôn trầm thuộc tướng sanh diệt, từ vọng tưởng đi thọ sanh tuỳ theo vọng nghiệp để thọ báo, nếu lấy cái tâm diệu minh vô vi mà quan sát thì bảy thú xứ đều như hoa đốm giữa hư không, hoàn toàn không dính dáng, chỉ là một cái danh tướng hư vọng, thật không có cội gốc manh mối khả đắc. Hàng chúng sanh ấy không nhận thức cái bổn tâm sáng suốt nhiệm mầu mà phải chịu luân hồi, trãi qua vô lượng số kiếp vẫn không đạt đến Phật thể chân thật, thọ dụng thanh tịnh, giai do tuỳ thuận vào ác nghiệp tham, sân, si, giết hại, trộm cắp, dâm dục, đến nỗi có ba đường ác, nếu không giết hại, trộm cắp, dâm dục ắt được sanh ở thiên đạo. Có ba độc  thì được sanh ở cõi trời, một có, một không, một chìm, một thăng liền có luân hồi sống chết. Cái gốc bệnh sống chết ấy, chỉ có thuốc định mới có thể điều trị, nếu hiểu được Tam Ma Bát Đề từ nhĩ môn tu tập ắt là cảnh Thường tịch quang hiện tiền, cái gọi là ba độc với không ba độc đều bất khả đắc, ngay cả cái bất khả đắc cũng bất khả đắc, cái danh không giết hại, không trộm cắp, không dâm dục còn không có còn nói gì đến việc tuỳ thuận giết hại, trộm cắp, dâm dục? Này A Nan! Nếu không đoạn trừ giết hại, trộm cắp, dâm dục thì mỗi người tạo nghiệp, có biệt nghiệp riêng của mỗi người, hợp lại biệt nghiệp của mỗi cá nhân thì biến thành cọng nghiệp, đã là cọng nghiệp thì có chúng đồng phận, đã có chúng đồng phận, cái gọi là thiên đường địa ngục không phải không định xứ. Cái nguyên nhân xa đều do một niệm vọng động mà sinh nhưng vọng từ đâu đến? Thực sự vọng không có chỗ đến, tính của vọng là vô thể, hoàn toàn không có sở y, đã không có sở y, thì không thể truy tìm. Này A Nan! Ông ở trong thời kỳ mạt pháp, điều cần yếu là khích lệ người tu hành, muốn đắc Bồ đề Đại giác tất cần giữ giới tuyệt đối không được giết hại, trộm cắp, dâm dục, nếu không tuyệt đối không giết hại, trộm cắp, dâm dục, tuy là đạt đến thần thông cũng chẳng qua là công dụng hữu vi của thế gian mà thôi, chủng tử bất diệt của hữu lậu ắt là bị đọa lạc vào thiên ma ngoại đạo, tuy nghĩ đến trừ vọng nhưng vọng càng thêm, đức Phật cho hạng người ấy thật là đáng thương, đấy là tự làm tự nhận, không quan hệ gì với Bồ đề Đại giác. Chiếu theo Như Lai nói là Phật nói, không chiếu theo Như Lai nói như vậy là Ma vương nói.   

            Khi ấy, những nghi vấn của tôn giả A Nan đều được đức Phật giải đáp xong, sắp kết thúc thời thuyết pháp, nhưng vẫn còn một vài yếu nghĩa cũng cần khai thị, từ pháp toà đức Phật xê dịch chiếc ghế bảy báu rồi chuyển Phật thân của ngài như ngọn núi vàng uy nghiêm, dựa vào ghế bảy báu, tuyên nói với A Nan cùng đại chúng: Các ông là những học giả sơ, nhị, tam quả cùng các vị Thanh văn, Duyên giác. Hôm nay hồi tiểu hướng đại, tiến vào con đường đại Bồ đề diệu giác, Như Lai đã đem Phật pháp chân thật nói với các ông, nhưng sợ các ông vẫn không hiểu ở trong định Xa Ma Tha, trong khi khởi lên quán chiếu bí mật nhỏ nhiệm vẫn có rất nhiều ma sự vi tế, thảng như cảnh giới ma hiện ra rồi không biết tẩy trừ hết vọng tâm ấy một cách đúng đắn thì bị rơi vào tà kiến. Cái gọi là ma cảnh, hoặc là ma của năm uản tự thân, hoặc là Thiên ma, hoặc gặp phải quỷ thần, hoặc gặp phải Ly mị, nếu trong tâm hồ đồ không thể phân biệt nhận thức, đề cao vị ấy, nhận ma làm Phật, cũng giống như nhận giặc làm cha. Hoặc giả có người, được ít cho là đủ, không chịu thân gần với thiện tri thức, tức như tỳ kheo vô văn đắc tứ thiền, chỉ tu tập vô tưởng định, không cần nghe nhiều, cho rằng đã chứng đắc quả vị A-La-Hán, sau này phước trời hưởng hết, tưởng tâm lại khởi lên, tướng suy lại hiện ra, vị ấy không biết rằng vốn mình không chứng quả rồi huỷ báng Phật nói dối là A La Hán không còn nhận hậu hữu, lấy nhân duyên huỷ báng Phật như vậy nên phải đoạ vào địa ngục A tỳ. Các ông hãy lưu tâm lắng nghe! Hôm nay Như Lai vì các ông mà phân biệt giải thuyết.

            Tôn giả A Nan nghe xong liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đồng thời chư vị học giả đang tu học pháp hữu vi ở trong pháp hội ai nấy đều hoan hỷ hướng về đức Phật đảnh lễ lắng nghe đức Phật từ bi giáo giới. 

            Đức Phật dạy: Các ông cần phải hiểu cái đó là từ khởi hoặc mà tạo nghiệp, từ tạo nghiệp mà thọ báo thế giới hữu lậu, trong đó có mười hai loài chúng sanh vốn có cái tâm thể sáng suốt, nhiệm mầu, tròn đầy cùng khắp mà Phật và cả chúng sanh cùng nương, với chư Như Lai mười phương không hai, không khác, chúng sanh đã sai lầm từ vô thỉ đến nay bị vọng tưởng mê hoặc, phát khởi cái tâm vô minh ái nhiễm mà sinh khởi kiến phần, có kiến phần nên nhìn thấy hư không, có hư không nên nhìn thấy sắc tướng, có sắc tướng nên có thế giới. Mười phương thế giới hiện tại đều là thế giới hữu lậu, là mê chân dính vọng, từ vọng tưởng mà an lập. Nên biết hư không rộng lớn sinh ở trong tâm của các ông, cũng như một áng mây trôi giữa hư không bao la huống nữa là mười phương thế giới ở trong hư không? Có thể thấy cái ấy đã nhỏ càng nhỏ, cũng như một hạt vi trần. Trong đại chúng các ông giả như có người phát huy ra cái chân tâm vốn có, quay trở về với tính thể pháp giới thì hư không mười phương lập tức tiêu mất. Thế thì các cõi nước ở trong hư không làm thế nào mà không bị phá liệt. Các ông trong đi, đứng, nằm, ngồi tu tập thiền định, ở trong định không lúc nào mà không quên trần chiếu tính thì nội tâm tự nhiên không hôn trầm, không tán loạn cho đến một niệm không sinh, khi ấy ông với Bồ tát mười phương cho đến hàng đại A La Hán vô lậu tâm kết thành một mảng, trong sáng, hư linh, hết thảy hầm hố của ma vương, hết thảy hang ổ của quỷ thần cho đến các cung điện của các cõi trời tứ thiền đều không nguyên cớ bỗng nhiên sụp đổ đại địa chấn động, trời nghiêng đất ngửa khiến cho các loài ở trong nước, ở trên mặt đất, ở trên không đều bàng hoàng kinh sợ cũng như ngày tận thế đến vậy. Chỉ có các ông phàm phu mơ mơ hồ hồ cho đó là trắc trở của âm dương hoặc giả cho là động đất cấp mấy mà thôi. Nhưng hàng Ma vương, quỷ linh tinh quái đều đã đạt đến năm loại thần thông, chỉ không có lậu tận thông nên mới lưu luyến với cái thế giới trần lao phiền não ấy thì làm sao lại chịu để cho ông đập phá cung điện khả ái của họ? Vì thế, hết thảy quỷ thần, thiên nhơn, ly mị, võng lường, cho đến cả ma vương chờ khi ông tu tập chánh định chúng liên hợp nhau tìm đến để quấy phá ông. Tuy là Ma vương, quỷ thần rất hận ông nhưng chúng vẫn còn ở trong trần lao phiền não, không có sức mạnh lớn, còn ông thì ở trong diệu giác thì tà không thể thắng chánh, tuy chúng quấy nhiễu ông cũng chẳng qua như gió thổi ánh sáng, như dao chém vào nước, nước chẳng đứt. Ông so như nước sôi còn chúng so như băng tuyết, nước sôi rưới vào thì băng tuyết tan ngay. Chúng chỉ ỷ vào chút thần lực nhỏ, chỉ ở nơi vị trí khách không có tác dụng đáng kể. Chẳng qua Như Lai vẫn cần nói ra sức mạnh phá hoại của chúng thành tựu không phải do chúng mà là do tự thân ông. Chủ nhân năm uẩn ở trong tâm của chính thân ông nếu mà hồ đồ thì khách bên ngoài liền thừa cơ hội. Vì thế, trong khi ông đang tu tập thiền định, tuỳ lúc mà giác sát, sức mạnh ma lực của chúng vô luận là tệ hại như thế nào cũng không thể làm gì được ông. Uẩn cảnh của ông tiêu vong liền chứng nhập Đại quang minh tạng thì bọn quỷ, thần, ma vương chỉ là cái khí u ám kết thành ảo hình, còn hào quang của ông cũng như mặt trời xua tan bóng tối, một khi hào quang ấy đến gần thì lập tức xua tan chúng thì làm sao chúng ở lại quấy phá thiền định của ông được? Giả như ông rơi vào hôn mê không hay biết, một khi bị bóng tối của ma che thì một A Nan như ông tất sẽ là ma con của chúng, trở thành dân của nước ma, tức là như con gái của Ma Đăng Già, vốn là rất nhỏ, rất hạ liệt, chẳng qua cô ta xử dụng chú Phạm thiên làm cho ông tưởng chừng như đã phá hoại luật nghi trong tám vạn tế hạnh chỉ cần phạm một giới đụng chạm đến thân thể đàn bà. May thay cái tâm của ông vẫn thanh tịnh nên không đến nỗi phá giới. Ám ma ấy không thể giết hại cái thân tuệ mạng của ông cũng như vị tể tướng đương triều, tuy ở dưới một người nhưng lại ở trên cả vạn người, một lúc nào đó xúc phạm oai trời còn bị tru diệt cả họ, đến lúc ấy là lúc khóc thương cho người thân bị xa lìa kêu trời không thấu, kêu đất cũng không nghe, không còn sức mạnh nào cả!  

            Này A Nan! Ông nên biết, trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi ở trong đạo tràng hãy quên hết cảnh tượng của sáu  trần thì hết thảy niệm đều tự nhiên rơi rụng, niệm hết rồi thì căn tính vốn có tự nhiên hiển hiện ở trong tất cả thời, tất cả nơi chốn, trong tâm tinh mà không tạp, sáng mà không u ám, niệm đã tiêu ắt là tịch lặng, động tĩnh thuộc ngoại cảnh không thể làm thay đổi, thức khởi cũng không nhớ, thức diệt cũng không quên, quên nhớ như một, cũng như hình ảnh đi rồi nhưng cái thể của kính không thay đổi, ở trong thời điểm này tam muội hiện tiền nhập chánh định. Nhưng sức mạnh của định chưa sâu, cũng như người mắt sáng đang ở trong bóng tối tuy là cái tính của sáu tinh, chính là minh tâm thanh tịnh, mầu nhiệm bị sắc uẩn che khuất, sắc uẩn chưa mờ thì ánh sáng của tâm chưa phát ra, do vậy, phàm chỗ nào nhìn thấy cũng chỉ là tối tăm không bờ mé, tuyệt không có ánh sáng, cái đó gọi là khu vũ sắc uẩn. Khu là có giới hạn; vũ là tường vách che khuất, cảnh tượng của sắc uẩn chưa phá trừ. Nếu như sức mạnh của định sâu, phát huy ra hào quang của bổn tính, ắt là bóng tối trước kia đều biến thành ánh sáng. Mắt sáng chiếu khắp, bên trong thấu ngũ tạng, bên ngoài thấu cả núi sông, đại địa, tuy chưa đủ năng lực chiếu thấu đại thiên nhưng mắt thấy mười phương ở phía trước, không chỗ nào không thấy rõ, không chỗ nào ngăn ngại, không còn trở lại cái tướng tối tăm, lúc ấy gọi là hết sắc uẩn. Vị ấy liền vượt ra khỏi kiếp trược rồi phản quán từ cái chỗ quá u ám trước kia, chính là không thấy, không phân biệt tướng thuộc kiếp trược, nay sức mạnh của định sâu, sắc, không đã mất vượt qua khỏi kiếp trược, do đó mà biết được rằng cái gốc của sắc uẩn nguyên là vọng tưởng kiên cố.   

            Này A Nan ! Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tỉnh lặng, tinh tế tư duy về cái diệu minh của tính nghe, lúc ấy chẳng biết có cái thân ắt là bốn đại bên trong với bốn đại bên ngoài không dao dệt, trong ngoài hư dung, cảnh với thân như ảnh như mây, trong thời gian chẳng bao lâu, hoát nhiên không ngăn ngại đó là ánh sáng nhiệm mầu của tâm phát tiết ở cảnh giới căn trần, sức mạnh của định lực nó chỉ thoáng che mà thôi, không phải là cảnh giới của thực chứng thuộc hàng thánh nhân, chẳng cần phải tạo ra cái tâm của bậc thánh, mà chỉ nhận rằng nó cũng là hiện tượng tốt đẹp, nếu nói là quả thánh thì bị rơi vào cái vòng của quần tà.   

            Người tu tập thiền định, ở nơi cái thời điểm giữa bờ mé mà sắc uẩn sắp phá nhưng chưa phá, cần lấy cái tâm tỉnh lặng, tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe, khi ấy quán lâu ắt công phu sâu xa, thường tự thấy cái thân, ánh sáng thấu triệt bên trong, hoát nhiên từ bên trong của chính mình lôi ra những con hồi trùng dài ngắn, sau khi lôi chúng ra thân thể chính mình không bị thương hại, đó là ánh sáng nhiệm mầu của tâm, phát tiết ở tay chân ngũ tạng, nhân vì tư duy đến cùng tột nên nó chỉ thoáng che mà thôi, không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, chẳng cần phải tạo ra cái tâm của bậc thánh mà chỉ nhận rằng nó cũng là hiện tượng tốt đẹp nếu cho nó là quả thánh liền bị rơi vào cái vòng của quần tà . 

             Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé mà vị ấy sắp phá sắc uẩn nhưng chưa phá, cần lấy cái tâm tỉnh lặng, tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của cái tính nghe, bên trong thân với cảnh bên  ngoài đều hư dung, so ra, một là chỉ thường thông với bên ngoài, thứ hai là thấu triệt bên trong, như nay thân và cảnh,  này kia dung nhiếp thì đủ thấy công lực của định đã tiến thêm được một bước. Lúc ấy ngoại trừ nhục thân vẫn an nhiên nhưng tinh thần, hồn phách, ý chí cùng tương nhập, làm khách chủ qua lại rồi bỗng dưng giữa hư không nghe có âm thanh nói pháp, hoặc là nghe mười phương thế giới cùng một lúc tuyên nói nghĩa lý thâm mật, đó là nhờ tư duy đến cùng tột sức mạnh của định gia tăng, trong ngoài dung nhiếp cho đến việc tinh thần rời khỏi bản vị mà hợp với hồn phách, hoặc là hồn phách rời khỏi bản vị mà hợp ở tinh thần, thay nhau ly hợp rồi ảnh hưởng mà hiện ra, hoặc là có các chủng tử thiện đã huân tập trong đời quá khứ, tự động hiện ra, cũng chẳng qua là nó chỉ thoáng hiện mà thôi, hoàn toàn không phải cảnh giới thực chứng của bậc thánh, không cần phải tạo ra tâm của bậc thánh mà chỉ nhận rằng nó cũng là hiện tượng tốt đẹp, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng của quần tà.  

             Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tĩnh lặng, tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của cái tính nghe, tư duy càng tiến bộ thì cái diệu tâm càng hiện rõ, khi ấy tâm như nước lắng trong, hiện lộ rõ ràng thông thấu, nội tâm phát ra hào quang, chiếu thấy mười phương thế giới y báo, tất cả đều một màu vàng ròng, hết thảy chúng sanh hữu tình hoá thành chư Phật Như Lai, bỗng nhiên nhìn thấy Đại Nhựt Như  Lai ngồi trên đài thiên quang đi quanh hàng ngàn vị Phật, trăm ức cõi nước, trăm ức hoa sen xuất hiện cùng một lúc, đó là những ấn tượng của kiếp trước đọc kinh, nghe pháp lưu lại ánh sáng của tâm nhờ tinh tế tư duy mà phát sáng phản ánh ra cõi nước của chư Phật, chẳng qua chỉ thoáng hiện mà thôi chứ không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, không nên tạo ra cái tâm của bậc thánh mà chỉ nhận rằng đấy là hiện tượng tốt đẹp, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng của quần tà.  

            Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm ở giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tĩnh lặng tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe, không  ngừng quan sát cái chỗ huyền mật, giữ cái tự tâm bất động, chế phục định lực, chớ để vượt qua tuệ lực, rồi chế phục tuệ lực không để vượt qua định lực, khiến cho sức mạnh của định huệ ngang bằng, lúc ấy bỗng nhiên nhìn thấy mười phơng hư không, khắp mặt đất thành bảy báu hoặc là màu sắc trăm báu, cùng khắp hư không thế giới, chẳng hề ngăn ngại giữa các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi màu sắc đều thuần hiện hoàn toàn không lẫn lộn, đó là do quá cưỡng chế nên chỉ thoáng hiện mà thôi chứ không phải là cảnh giới  thực chứng của bậc thánh, không nên tạo ra cái tâm của bậc thánh mà chỉ nhận là hiện tượng tốt đẹp, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng của tà kiến.  

            Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tĩnh lặng, tinh tế tư duy ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe, khi ấy cái tâm trong lắng, chiếu thấu cảnh tâm sáng ngưng nhiên, không bị loạn động bởi tâm cảnh, bỗng nhiên ở nửa đêm, tuy ở trong phòng tối vẫn nhìn thấy các thứ xuất hiện trong bóng tối cũng như nhìn thấy giữa ban ngày hoàn toàn không khác, nhưng cảnh tượng vốn có ở trong phòng tối, hiển hiện y nguyên không hề thay đổi, đó là ánh sáng tế mật của tâm, cảnh nhìn đến trong lắng hay u ám cũng là thoáng qua mà thôi chứ không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, không nên tạo ra cái tâm của bậc thánh mà chỉ nhận là hiện tượng tốt đẹp, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng tà kiến.  

            Người tu tập thiền định trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tĩnh lặng tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe, khi ấy, công phu phản văn tiến thêm một bước nữa, cảm giác thân tâm bên trong, cảnh giới bên ngoài không cái gì là không dung nhiếp không biết có thân, tay chân cũng giống như cây cỏ, tay chân thì có tri giác còn cỏ cây thì không có tri giác, có tri giác ngang bằng với không có tri giác, tuy bị lửa đốt nhưng đốt không cháy, tuy bị đao chém cũng như chặt cây, đó là hiện tượng sắc uẩn bị tiêu tán, tín hiệu của bốn đại giải thể nhân vì chuyên tâm phản văn, sức mạnh của tâm thuần nhất, do đó mà quên cái thân như mất, cũng là thoáng hiện mà thôi chứ không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, chỉ nhận là hiện tượng tốt đẹp, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng của tà kiến.   

            Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy tâm tĩnh lặng tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe để thành tựu tâm thanh tịnh, thanh tịnh đến cực điểm bỗng nhiên nhìn thấy, núi sông, đại địa cho đến mười phương thế giới, khắp mặt đất thành cõi nước Phật, đầy đủ bảy báu lấp lánh chen đan, ánh sáng đầy khắp, lại nhìn thấy vô số Như Lai cùng khắp hư không giới, lâu đài, cung điện trang nghiêm đẹp đẽ, dưới thì thấy địa ngục, trên thấy cung trời, hoàn toàn không chướng ngại, đó là nhờ ngày thường xem kinh, nghe pháp, thích trên nhàm chán dưới, quán tưởng mười phương tịnh độ ngưng tưởng ngày mỗi sâu, huân tập thành chủng tử, nay ở trong thiền định, bị bức bách bởi tâm quang của phản văn do đó mà hiển hiện, tuy cũng là hoá thành, nhưng cũng không phải là hư cảnh, tuy nói là cảnh thật nhưng cũng giống như ảo hoá, cũng chẳng qua thoáng hiện mà thôi chứ không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, chỉ có thể nhận là hiện tượng tốt lành, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng tà kiến.   

            Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tĩnh lặng, tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe, truy cầu cảnh giới sâu xa, bỗng nhiên ở nửa đêm tuy ở chỗ tối tăm mà vẫn nhìn thấy cảnh vật rất xa, còn nhìn thấy cả nhận thức của thân bằng quyến thuộc, lại còn nghe tiếng nói chuyện của họ, đó là do sức mạnh của định bức bá, bức bách đến cực điểm đến nỗi tâm quang vọt ra, nhưng cũng là thoáng hiện mà thôi, chứ không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, chỉ có thể nhận đó là hiện tượng tốt lành, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng tà kiến.  

            Người tu tập thiền định, trong cái thời điểm giữa bờ mé sắp phá sắc uẩn mà chưa phá, cần lấy cái tâm tĩnh lặng tinh tế tư duy về ánh sáng nhiệm mầu của tính nghe, tư duy đến cực điểm, cái tâm tính với tâm của bậc thánh tiếp cận dung thông là cảnh giới sắp phá sắc uẩn, lúc ấy bỗng nhiên nhìn thấy thiện tri thức, hình dáng thân thể, chỉ trong nháy mắt mà có nhiều biến hoá, hoặc biến làm thân Phật, hoặc biến làm thân Bồ tát, hoặc biến làm thân trời, thân rồng, thân quỷ, thân thần, cho đến thân đàn ông, đàn bà đó là tà tâm của tự thân, tiếp nhận ám thị của Ly mạt, Võng lường hàm tàng ở trong tâm, bây giờ ở trong định chúng hiển hiện ra, hoặc giả gặp thiên ma, nhập vào trong tâm phủ, thao túng tinh thần chính mình, không duyên cớ lại nói pháp, thông đạt nghĩa lý vi diệu, hoàn toàn là không thật khai ngộ, không phải là cảnh giới thực chứng của bậc thánh, đợi đến lúc ma sự tiêu tán, tự nhiên hiện tượng ấy không có, nếu cho nó là thánh quả thì bị rơi vào cái vòng tà kiến. 

            Này A Nan! Mười loại trên đây là của người tu tập chánh định, ở trong sắc uẩn lấy thiền quán với vọng tưởng đấu tranh nhau do đó mà có các cảnh giới ấy hiện ra. Chỉ vì chúng sanh xưa nay đều hồ đồ ngu muội, tự thân vị ấy không biết lường sức bản thân nguyên là một kẻ phàm phu sống chết, há lại có thể trong chốc lát đạt đến thành Phật? Nhân đó, vị ấy gặp được nhân duyên liền nói là đã thành Phật. Nào có ngờ đâu câu nói đại vọng ngữ ấy vừa ra khỏi cửa miệng liền thành khẩu nghiệp, tương lai   sẽ bị đoạ vào địa ngục Vô gián . Này A Nan ! Các ông, sau khi Như Lai diệt độ, ở thời kỳ mạt pháp cần phải căn cứ những gì Như Lai nói, tuyên bố mười loại cảnh giới của tu thiền, chớ nên để cho thiên ma thừa cơ hội đối với người tu tập thiền định, các ông cần giữ gìn Phật pháp, che chở cho những ai tu hành, giúp cho họ thành tựu Phật đạo vô thượng!  

            Này A Nan! Người tu tập thiền định ấy, đang tu tập Tam ma bát đềvà kiêm tu Xa Ma Tha nếu có năng lực xuyên qua sắc uẩn thì không được chôn dấu ở chỗ tối tăm mà thường thấy cảnh giới quang minh, khi ấy đã thân chứng Phật tâm cũng như trong kính hiển hiện ảnh của vị ấy. Cái gọi là Phật tâm, chính là minh tâm diệu giác của tự thân, nay sắc uẩn đã phá thì diệu giác minh tâm lại càng hiển ra thân thiết rõ ràng. Nhưng cái thể của diệu tâm, tuy có sở đắc nhưng chưa phát ra cái dụng, nhân vì còn bị che khuất bởi thọ uẩn, cũng như người bị quỷ ám, tay chân tuy không hề hấn gì, tri giác cũng bình thường chỉ bị tà khí xâm nhập, tâm tuy sáng nhưng sức lực không tự do, tự thân không thể thao túng thân thể của chính mình, cảnh giới ấy gọi là khu vũ thọ uẩn, đợi đến khi hết quỷ ám thì thân thể mới được tự do, thọ uẩn phá xong thì cái tâm thường rời khỏi thân, cái tâm ấy gọi là ý sanh thân, từ bên ngoài phản quán, có thể nhìn thấy thân thể  của chính mình, cái tâm như con chim bay, bỗng đến rồi bỗng đi, đến, đi đều tự do không bị nhục thân hạn chế. Khi ấy, gọi là hết thọ uẩn liền vượt ra ngoài kiến trược, quán sát thọ uẩn từ đâu sanh, thì ra nguyên là vọng tưởng hư minh mà thôi. 

            Này A Nan! Người tu tập thiền định, đã hết sắc uẩn, trong lúc thọ uẩn chưa phá, mắt thấy hư không mười phương toàn là ánh sáng, không còn tối tăm như trước. Khi ấy, tâm phát ra hào quang tương ưng với tâm Phật, chỉ nhân vì áp chế vọng tâm quá mức lại càng phát ra bi quan vô hạn, thậm chí nhìn thấy một con trùng cũng tương tự  như nhìn thấy một em bé, trong tâm liền sanh khởi tình thương tự nhiên rơi nước mắt, đó là cái tâm có công dụng, nhân vì áp chế quá độ đến nỗi thành ra ái kiến. Nếu khi ấy khởi lên một niệm vẫn có thể khôi phục chánh niệm, không có gì trở ngại, lâu ngày thì hiện tượng ấy không còn. Thảng như ngộ nhận đó là đồng thể đại bi của bậc thánh thì bị dắt dẫn bởi ma bi, thừa cơ rồi nhập, tiềm tàng ở trong năm uẩn, lục phủ, vừa nhìn thấy người nào đó thì không thể giữ được thương khóc đến nỗi mất chánh thọ rơi vào tà thọ chẳng những không thể tăng tiến, ngược lại từ đây bị đoạ lạc. 

            Người tu tập thiền định, biết sắc uẩn phá xong, hiện tại là cảnh giới thuộc thọ uẩn nhưng tuệ lực quá nhiều, còn định lực chưa đủ, sai lầm ấy quá mạnh rồi cho rằng tâm tức Phật, thường mang cái quan niệm đó để ở trong lòng. Lại nữa, tự thân thường nghi ngờ rằng: Mình có phải là Lô xá na? Là Phật hay sao? Nếu nói như thế, thì không thể tu thành. Đã có cái quan niệm ấy để ở trong lòng liền trở thành vị đắc ít cho là đủ. Hạng người ấy dụng tâm đến mấy, định lực cũng mỏng không biết thường xuyên sát giác lại quá tự tin, nếu như tỉnh ngộ thì không có gì đáng lo sợ, còn nếu tự cho rằng mình đã chứng ngộ Bồ đề quả vị Phật liền có ma biết đủ hạ liệt thừa cơ hội mà nhập, tiềm tàng ở trong năm uẩn, sáu phủ, nắm giữ thần thức của vị ấy hễ thấy ai liền nói là đã đạt đến Bồ đề vô thượng đệ nhất nghĩa đế, từ đó bị mất chánh thọ, cái tâm tuỳ theo ma biến, chẳng những không thể tăng tiến, ngược lại từ đó bị  đoạ lạc.  

             Người tu tập thiền định, biết rằng sắc uẩn phá xong, hiện tại là cảnh giới thuộc thọ uẩn, cảnh giới mới không gia tăng mà cảnh giới cũ thì đã mất, nhìn trước ngó sau tiến thoái lưỡng nan, không còn cách nào để dụng tâm, liền tự sanh ra sợ hãi. Bỗng nhiên sanh khởi lo lắng vô cùng, như ngồi trên nệm kim, như uống hoàng liên, như con kiến ở trên nồi nước sôi, nằm, ngồi chẳng yên, ăn uống không vui, không muốn sống mà chỉ muốn chết, hy vọng một ngày gần đây sẽ đạt đến giải thoát. Hạng người ấy, nhân vì không có sức mạnh của trí tuệ quán chiếu nên như vậy. Nếu như tỉnh ngộ thì chẳng có gì đáng lo sợ, nếu như lấy việc bỏ mạng sống vì giải thoát liền có một bộ phận ma thường ưu sầu thừa cơ hội mà nhập, tiềm tàng ở trong năm uẩn, sáu  phủ thao túng vị ấy, bảo vị ấy mang đao kiếm bén tự cắt thịt mình, khích lệ vị ấy bỏ mạng sống chết nhanh, hoặc giả chúng muốn vị ấy thường ưu sầu, đi vào núi rừng sâu, không muốn nhìn mặt con người, từ đó bị mất chánh thọ, chẳng những không thể tăng tiến, ngược lại còn bị đoạ lạc.  

            Người tu tập thiền định, biết rằng sắc uẩn phá xong, hiện tại là cảnh giới thuộc thọ uẩn, bỗng nhiên nhìn thấy mười phương rộng mở, không có ngăn ngại bởi vật chất phóng hào quang lớn, khi ấy tâm địa hư minh thấy được Phật tâm, như ảnh ở trong kính, ở trong trạng thái thanh tịnh, một trần chẳng nhiễm, thân tâm yên ổn liền sanh khởi cái tâm hoan hỷ vô hạn, hoan hỷ đến độ không cách nào cưỡng chế được, đó là thành tựu định tâm, phát ra nhẹ nhàng yên ổn, thân tâm khoan khóai, không thể nào so sánh. Nếu như tỉnh ngộ thì chẳng có gì đáng lo sợ, nếu cho nó là lạc của bậc thánh chứng đạo liền có một bộ phận ma ưa thích lạc thừa cơ mà nhập, tiềm tàng ở trong ngũ uẩn, lục phủ thao túng vị ấy bảo vị ấy hễ thấy ai là cười, ở bên vệ đường tự ca múa, biểu thị là đã đạt đến giải thoát không vướng ngại, từ đó bị mất chánh thọ, chẳng những không thể tăng tiến ngược lại còn bị đoạ lạc.  

            Ngời tu tập thiền định, biết sắc uẩn phá xong, cảnh giới hiện tại thuộc thọ uẩn, thấy có mảng hào quang thường hiện tiền, rồi cho rằng các vọng tưởng đã hết, nhất chân đã tròn, từ đó vị ấy tự mãn, tự túc, vô cớ sanh khởi bảy loại kiêu mạn:   

            -Một là đại ngã mạn, nói mình là Phật; 

            -Hai là mạn, người thua kể như hơn, người bằng kể như bằng; 

            -Ba là quá mạn, ở người hơn cho là bằng, ở người bằng kể là hơn;  

            -Bốn là quá quá mạn, ở người hơn kể là hơn; 

            -Năm là tăng thượng mạn, chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng; 

            -Sáu là ty liệt mạn, đối với người hơn nhiều tự cam chịu thua, nhưng không kính trọng, không cầu, khởi lêm mặc cảm tự ty;  

            -Bảy là tà mạn, không hề có đức nói là có đức, không kính trọng thánh hiền. Đó là bảy loại mạn phát tác cùng lúc . Vị ấy cho rằng mình là tốt, người khác đều là thiếu trí tuệ, không khắc kỷ, nếu thường quán sát hết thảy các pháp xưa nay vốn bình đẳng, không có cao thấp thì không đến nỗi kiêu mạn như thế, cũng chẳng có gì đáng lo sợ. Nếu cứ chấp mê không tỉnh ngộ tự nhận mình là Phật liền có một bộ phận ma đại ngã thừa cơ mà nhập tiềm tàng ở trong ngũ uẩn, lục phủ, nắm giữ thần thức của vị ấy, không còn kiêng kỵ ai, không lễ bái tháp Phật, phá huỷ kinh Phật, lại thường nói với các thí chủ: Tượng Phật là cái gì? Chẳng qua chỉ là các thứ đồng, thiết, gỗ điêu khắc thế thôi. Kinh Phật là cái gì? Chẳng qua chỉ là lá cụ đa la, hoa bông, thanh tu thế thôi, nhục thân của chúng ta thì mới có chân thường, mới là chân Phật! Tự mình không cung kính mình, ngược lại đi cung kính những thứ đất, gỗ, đồng, thiết đó làm gì há chẳng điên đảo? Người ấy nói ra những lời đại cuồng ấy, khiến người kia tin vào vị ấy rồi đem tượng Phật đập nát liệng vào chỗ dơ dáy, phá hoại tín ngưỡng của con người, xem thường chúng sanh, khiến cho vị ấy vô cớ tạo tội phải đoạ vào địa ngục, người phát ra lời nói cuồng như vậy chẳng những không thể tăng tiến, ngược lại còn mất chánh thọ bị chìm đắm trong địa ngục Vô gián. 

            Người tu tập thiền định,  biết sắc uẩn phá xong, cảnh giới sáng suốt thuộc thọ uẩn đã hiện tiền, đối với thức tình nguyên minh đã viên ngộ nguyên lý, tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, không có gì không, tuỳ tâm thuận ý, không chỗ nào ngăn ngại. Trong cái tâm của tự thân bỗng nhiên sinh khởi vô lượng khoan khoái liền cho rằng đã thành Phật, đã đạt đến đại tự tại, từ đây về sau không cần phải tu tiến, đó là sau khi tâm viên ngộ, cái trí tuệ đã đạt được rồi lấy trí tuệ ấy mà xã ly các phiền não thô nặng mà chứng nhập cảnh giới khinh an, thanh tịnh, cũng chẳng qua chỉ nhất thời lãnh ngộ mà thôi, không nên tự cho là đầy đủ . Nếu thường giác sát thì vẫn không có gì hại lớn, nếu như cho rằng thật thành Phật liền có một bộ phận ma thích thanh tịnh, khinh an thừa cơ mà nhập, tiềm tàng ở trong sáu phủ, năm uẩn nắm giữ thần thức của vị ấy rồi cứ tự mãn, tự cho là đủ, chẳng cầu tiến thủ, không thân gần với thiện tri thức. Hạng người ấy đa só là tỳ kheo vô văn thuộc một loài chúng sanh ở cói trời vô tưởng, chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, đến khi chết thì cái tướng suy tất lộ ra liến trở lại huỷ báng Phật pháp, khinh người, hoặc có khi bị người nghe được, sanh khởi tâm nghi ngờ, phản đối Phật pháp, xem thường chúng sanh, đoạ vào địa ngục Vô gián. Người ấy chẳng những không thể tăng tiến ngược lại còn bị mất chánh thọ tất bị chìm đắm trong địa ngục A tỳ.   

            Người tu tập thiền định, biết sắc uẩn phá xong, cảnh giới sáng suốt  thuộc thọ uẩn đã hiện tiề̀n, nhìn thấy mười phương rộng mở, hoát nhiên không vướng ngại, cái tính hư minh hiện ra trước mắt, trong tâm bỗng nhiên sinh khởi niệm không tịnh, cho rằng đã diệt thì mãi mãi diệt, liền vọng nói không có nhân, không có quả, không có Phật, không có chúng sanh, nghiêng ở phương diện không, đấy chính là đoạn diệt không. Kiến giải về không hiện tiền, thậm chí lâu dài, trong tâm thường có kiến giải thuộc đoạn diệt, đó là định tâm, nhập cảnh giới không tịch, do vì không có sức mạnh của trí tuệ quán sát, nếu ngộ được rằng đoạn diệt không chẳng phải là rốt ráo thì chẳng có gì hại lớn. Nếu cho rằng không có Phật, không có chúng sanh, không nhân, không quả, là cảnh giới thực chứng của bậc thánh lièn có không ma thừa cơ hội mà nhập, tiềm tàng trong sáu phủ, năm uẩn nắm giữ thần thức của vị ấy huỷ báng người giữ giới cho rằng giữ giới là đạo tiểu thừa, còn tự mình mới là Bồ tát đại thừa, cái gọi là voi lớn không đi con đường thỏ đi, đại ngộ rồi, chẳng câu nệ gì tiểu tiết, Bồ tát đắc ngộ không là đủ rồi, có gì mà còn giữ giới với không giữ giới? Tuy uống rượu ăn thịt, làm nhiều điều dâm uế, cho rằng dâm nộ si chính là giới, định, tuệ, nhân vì bị nắm giữ bởi ma lực, đến nỗi nghe vị ấy mà không khởi tâm nghi ngờ. Ma lực thôi miên một thời gian quá lâu, huân nhiễm ngày càng sâu đến nỗi ăn phân uống nước tiểu xem như là rượu thịt, sạch, dơ đều không tự ngã, do đó mà phá hoại luật nghi của Phật, mê hoặc người đời khiến họ phạm tội. Người ấy chẳng những không thể tăng tién, ngược lại còn bị mất chánh thọ ắt là bị đắm chìm trong địa ngục.  

            Người tu tập thiền định, biết sắc uẩn phá xong, cảnh giới sáng suốt thuộc thọ uẩn đã hiện tiền, tâm cảnh của vị ấy lúc này hư hư, linh linh, minh minh, tịnh tịnh, bị dính mắc vào cảnh giới đó, không muốn buông bỏ cũng giống như đã ăn xương tuỷ vậy, do vì ở trong thiền định, tự nhiên có một thứ khoái lạc nhỏ nhiệm, nhiệm mầu mà hạnh phúc thế gian không thể so sánh, yêu thích thứ hạnh phúc ấy, yêu thích đến cực điểm nên phát điên .Ái thuộc nước, nhân ái mà dục khởi, rồi chuyển biến thành tham dục. Đó là trong định cảnh, thuận với an lạc vào sâu đến tâm cốt, chỉ vì thiếu sức mạnh của trí tuệ, không thể giữ gìn được sức mạnh của định, do đó mà trở thành ái dục. Nếu như tỉnh ngộ thì chẳng có gì hại lớn, nếu cho đó là cảnh giới thực chứng của bậc thánh liền có ma ái dục thừa cơ mà nhập, tiềm tàng trong lục phủ, ngũ uẩn, sai bảo vị ấy tuyên nói ái dục là đạo Bồ đề Đại giác. Lấy lời nói ấy mà chỉ thị cho mọi người nhất luật thực hành dâm dục kẻ nào nương tựa vị ấy gọi là Phật tử giữ pháp, do vì có quỷ thần từ bên trong thao túng. Vì vậy mà ở thời kỳ mạt pháp, thu hút rất nhiều kẻ ngu làm đệ tử của vị ấy, nhiều đến một, hai trăm, hoặc năm trăm, thậm chí đến số ngàn số vạn, chờ đến khi con ma dục rời khỏi thì mới chịu rời khỏi thân thể của người tu thiền định, uy đức của người ấy cũng không có, chẳng bao lâu sẽ bị quan lại sát giác bắt giữ xử tội, đến nỗi ảnh hưởng cho Phật giáo khiến mọi người sanh ra nghi ngờ huỷ báng, niềm tin thối thất, khinh thường chúng sanh nên bị hãm nhập trong địa ngục. Người tu thiền định ấy chẳng những không thể tăng tiến, ngược lại còn mất chánh thọ, ắt bị đắm chìm trong địa ngục Vô gián. 

            Này A Nan! Mười loại trên đây là hạng người tu tập thiền định, ở trong thọ uẩn, lấy vọng tưởng với thiền quán, hai bên mâu thuẩn do đó mà có những cảnh giới ấy xuất hiện, chỉ vì chúng sanh xưa nay đều ngu si, tự vị ấy không lượng sức bản thân nguyên là một kẻ phàm phu sống chết há lại chỉ giây lát đã đạt đến thành Phật? Nhân đó, vị ấy vừa gặp nhân duyên ấy là nói ngay đã thành Phật. Nào ngờ câu nói đại vọng ngữ ấy vừa ra khỏi cửa miệng liền thành khẩu nghiệp, tương lai   sẽ bị đoạ  vào địa ngục Vô gián. Này A Nan! Các ông, sau khi Như Lai diệt độ, ở thời kỳ mạt pháp, cần nhất là căn cứ vào những gì Như Lai nói, tuyên bố cảnh giới của mười loại thiền, không nên để cho thiên ma có cơ hội đối với những ai tu tập thiền định, các ông cần giữ gìn Phật pháp, che chở cho người tu hành, giúp cho họ đạt đến Phật đạo vô thượng! Này A Nan! Người tu tập chánh định ấy, nếu phá xong thọ uẩn, tuy chưa hết lậu, nhưng chân tâm của vị ấy đã đầ̀y đủ rời khỏi thân thể, cũng như con chim ra khỏi lồng, đi, đến đều tự do, về thắng dụng tương tự như lậu tận thông, từ đó về sau, cái thân phàm phu ấy một mực lên cao, trãi qua ba tuần tự: Càn tuệ địa, ngũ thập ngũ vị cho đến diệu giác, sáu chục thánh vị, thành tựu ý sanh thân, cái gọi là nhập tam muội lạc ý sanh thân, giác pháp tự tính tính y sanh thân, chủng loại câu sinh vô tác ý sanh thân, nhưng lúc ấy, giác pháp tự tính  tính ý sanh thân đã thành tựu, khéo phổ nhập hết thảy cõi nước Phật, vì thế tuỳ ý đi đến không hề có chướng ngại nào cả, lãnh ngộ được tâm Phật với tâm của chúng sanh cùng là một thể, tuy là chưa chứng cảnh giới ấy nhưng lại biểu hiện ra cảnh giới ấy không sai ngộ, tức như có người khi đang ngủ say, tự nói rằng, tuy là ở trong hôn mê nhưng những việc nói ra có lý, khiến cho người tỉnh nghe đến đều hiểu rõ ràng ý của vị ấy, ở giai đoạn này gọi là tưởng uẩn khu vũ, chính là lúc thọ uẩn phá xong nhưng tưởng uẩn chưa phá. Nếu động niệm suy nghĩ lung tung được diệt trừ hết thì trong cái tâm vốn diệu giác đã tẩy đi một phần trần cấu. Trần cấu đã tiêu thì giác tâm hiển xuất sáng suốt, trong mười hai loại chúng sanh, sanh từ đâu đến, chết đi về đâu của mỗi loài đều được chiếu tỏ, lúc đó gọi là hết tưởng uẩn, vị ấy liền vượt ra khỏi phiền não trược. Hồi quán tưởng uẩn đến như thế nào ? Nguyên lai   nó có thể dung thông với cái gì đó vật chất không, vì thế nên gọi là Dung thông vọng tưởng.

            Này A Nan! Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn, những gì thấy, nghe đều cùng khắp, tâm thường rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân, đi về tự tại, không bị tà tư hoặc loạn bởi thọ uẩn, diệu định viên thông đắc hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, lúc tu tập chánh định, hốt nhiên khởi lên một niệm, ái dính viên mãn địa, phát ra diệu dụng, chí sắc bén, tư duy tinh, tham cầu biến hoá, muốn lấy phương tiện thiện xảo rộng làm Phật sự, giáo hoá chúng sanh, liền có thiên ma lục dục, tìm cơ hội rồi phái tinh linh, yêu mạt nhập vào thân thể người khác, miệng nói ra tương tự như Phật pháp. Người ấy đang bị ma mượn thân hoàn toàn không hay biết mình đã dính ma ngược lại nói là đã đạt đến Niết bàn vô thượng đi tìm người tu tập chánh định, tự mình thăng toà nói pháp thật là phương tiện thiện xảo, mượn thần thông, chỉ trong vài phút biến mình thành thân tỳ kheo, làm cho người khác tin tưởng. Hoặc biến thành thân Đế thích, hoặc biến thành thân phụ nữ, hoặc biến thành thân tỳ kheo ni tuy ở trong phòng tối, thân có hào quang, khiến cho người tu chánh định, hồ đồ cho rằng đúng là Bồ tát xuống trần, tin vào ám thị của vị ấy, làm dao động định tâm phá hoại luật nghi của Phật, lén lút làm những việc dâm dục cẩu thả. Người bị ma dính mắc ấy, miệng nói đến việc tốt xấu, hoặc là nói mỗi chỗ có Phật ra đời, hoặc là nói đến ngày tận thế  sẽ có ba tai nạn nước, lửa, gió; hoặc là nói  có đói khát mất mùa, dịch bệnh nạn đao binh, khiến cho mọi người bàng hoàng, quỳ xin cách giải cứu rồi được cúng dường làm cho sạch cả gia tài, đến cái lúc ấy thì chẳng có việc như vậy. Nguyên người ấy thuộc loài quỷ quái gặp vật liền thành hình, tuổi lớn thành ra ma vương sai khiến đến quấy phá người tu tập chánh định, đợi đến khi định lực của vị ấy bị phá là tâm ý sung sướng thì mới chịu ra khỏi thân thể ma. Ma đã không nương vào thân thể, ắt là không còn uy đức, khi ấy bị quan lại biết, lấy cái tội dùng ngôn ngữ yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền bắt ma trò, ma thầy đưa vào địa ngục, pháp luật quốc gia ắt không dung tha tội chế́t. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là phát giác thì mới vượt ra khỏi luân hồi không đoạ vào sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn  tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián. 

            Này A Nan! Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn, cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm thường rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân, đi đến tự tại không bị hoặc loạn  bởi tà tư của thọ uẩn diệu định viên thông đắc ở hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, khi tu tập chánh định, bỗng nhiên khởi lên một niệm, ái dính du hý thần thông, phóng đãng tự tại, tư duy tinh, ý sắc bén, sáng chiều tìm tòi, nghiên cứu, tham cầu đi khắp mười phương để làm Phật sự, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội sai tinh linh, quỷ mị tá túc vào thân thể người khác, miệng nói tương tự Phật pháp. Người ấy bị ma nhập vào thân thể, hoàn toàn không biết mình bị ma dính mắc, ngược lại nói là đã đạt đến Bồ đề Niết bàn, đến tìm người tu tập chánh định tự mình thăng toà nói pháp, đem hết du hý thần thông, khoe khoang những hiện tượng thần kỳ. Tuy nhiên hình dung của vị ấy hoàn toàn không thay đổi nhưng có khả năng khiến người nghe pháp bỗng nhiên nhìn thấy hoa sen báu trên pháp toà, toàn thân biến thành màu vàng ròng, chẳng những một người như thế mà tất cả thính chúng đều như thế. Người người hoan hỷ, tán thành, niềm hân hoan chưa từng có. Người tu tập chánh định bị vị ấy làm nghiêng động, tự mình hồ đồ cho rằng đúng là Bồ tát xuống trần gian, tin vào những chỉ thị của vị ấy, định tâm của chính mình bị dao động, phá hoại luật nghi của Phật, lén lút làm những việc dâm dục cẩu thả. Người bị ma gá vào ấ́y, miệng nói mỗi vị Phật hạ phàm tại mỗi nơi, mỗi người chính là mỗi vị Phật, mỗi người lại là mỗi Bồ tát, chẳng qua là hoá thân vào đời, du hý nhân gian. Người tu tập chánh định thấy vị ấy không thể nghĩ bàn như thế tâm liền khát khao ngưỡng mộ, ngày ngày thân gần huân nhiễm, từ đó sinh ra rất nhiều tà kiến đến nỗi chánh trí tiêu vong, đoạn tuyệt tuệ mạng. Nguyên vị ấy chỉ là loài Bạt quỷ gặp gió thành hình, tuổi già thành ma, nhận sự sai khiến của Ma vương đến quấy phá người tu chánh định, chờ khi vị ấy định lực bị phá thì tâm ý mới đầy đủ thì mới chịu rời khỏi cái thân thể gá vào. Ma đã không còn gá vào thân, ắt không còn uy đức, khi ấy, bị quan lại biết rõ cái tội lấy lời yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt cả ma trò, ma thầy tống vào ngục, quốc pháp không dung tha tội chết. Các ông cần quán sát, việc trước tiên là phát hiện thì mới vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ sống chết, thảng nhược vì mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián. 

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn, cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm thường rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng thành tựu ý sanh thân đi về tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định đắc tại hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, khi tu tập chánh định bỗng nhiên khởi lên một niệm, ái dính với định tâm huyền mật, hợp ở diệu dụng, tinh thần trong lặng, tư duy đến cùng kiệt, tham cầu khế hợp  nơi chí lý, liền có thiên ma lục dục, tìm được cơ hội rồi sai khiến tinh linh, yêu mạt gá vào thân thể người khác miệng nói tương tự Phật pháp. Người bị ma gá vào hoàn toàn không hay biết mình đã bị ma gá vào, ngược lại nói là đã đạt đến Niết bàn vô thượng, đi tìm người tu chánh định, tự thăng toà nói pháp. Tuy thân thể người ấy hoàn toàn không thay đổi, nhưng có khả năng khiến cho thính chúng, trước khi nghe pháp, tâm tự khai ngộ, tợ như đắc cái thể viên thông mà sở ngộ, lại nữa, niệm niệm thay đổi, tự như đắc cái dụng của viên thông, hoặc là đắc túc mệnh thông, biết sự việc trong quá khứ, hoặc đắc tha tâm thông, biết rõ tâm niệm của người khác, hoặc là nhìn thấy trạng huống đau khổ cùng cực của địa ngục, hoặc là biết các việc tốt xấu của nhân gian, hoặc có khi miệng nói kệ, hoặc là tụng kinh văn khiến mọi người hoan hỷ ai cũng tán thành, hân hoan chưa từng có. Người tu tập chánh định bị vị ấy làm nghiêng động, cho rằng đúng là Bồ tát xuống trần, triền miên theo vị ấy, tin tưởng chỉ thị của vị ấy  làm dao động định tâm, phá hoại luật nghi của Phật, lén lút làm các việc dâm dục cẩu thả. Người bị ma gá ấy, miệng nói Phật có lớn có nhỏ, mỗi người là Phật trước, mỗi người là Phật sau, mỗi người là chân Phật, mỗi người là giả Phật, mỗi người là Phật đàn ông, mỗi người là Phật đàn bà, Bồ tát cũng có phần lớn nhỏ, trước sau, chân giả, nam nữ. Vị ấy không hiểu ba tăng kỳ luyện hành, tu nhân trăm kiếp, Phật Phật đạo đồng, xưa nay nhất trí, há lại có Phật trước, Phật sau, hết vọng tức chân, há lại khác nhau chân giả? Từ xưa thành Phật đều lấy thân nam đắc đạo, nữ thân bị nam chướng làm sao mà thành Phật. Nhưng người tu chánh định ấy, thấy người đó không thể nghĩ bàn như thế liền bỏ hết sở học liền đoạ vào ma đạo. Nguyên lai   con mạt quỷ ấy gặp súc thành hình, tuổi già thành ma, chịu sự sai khiến của Ma vương, tìm người tu chánh định để não loạn chờ khi định lực của vị ấy bị phá thì tâm ý mới đầy đủ rồi mới rời khỏi thân thể của người bị ma gá vào. Ma đã không còn gá thì oai đức cũng không còn gì, khi ấy bị quan lại biết cái tội dùng lời lẽ của yêu ma để mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt ma trò, ma thầy bỏ vào ngục, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là phát hiện thì mới vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ vào sống chết, thảng như mê hoặc,một khi bị ma não loạn tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián.   

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn, cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm có thể rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân, đi đến tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định, đắc ở hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, khi tu tập chánh định bỗng nhiên khởi lên một niệm, cái tâm ái truy tìm gốc rễ của vạn vật, hiện tượng biến hoá của vạn vật, muốn xét biết thể chung, cái tâm ấy sáng suốt, thoải mái mong cầu biện biệt vật lý, phân tích hoá tính, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội sai khiến tinh linh, yêu mạt gá vào thân thể người khác, miệng nói tương tự Phật pháp. Người bị ma gá ấy, hoàn toàn không hay biết mình đã bị ma gá vào, ngược lại còn nói đạt đến Niết bàn vô thượng, đi tìm người tu chánh định, tự thăng toà nói pháp. Vị ấy cũng có tướng oai đức, có sức mạnh thần thông nên thính chúng cầu pháp đều kính phục, trước khi chưa nghe pháp đã tự nhiên bội phục. Thầy trò vị ấy đem Bồ đề Niết bàn, cho đến pháp thân mà Phật đã tuyên nói cho rằng chỉ  là nhục thân, cha truyền con, con truyền cháu đời đời, kiếp kiếp đều là pháp thân thường trụ bất đoạn. Lại còn chỉ thế giới trước mắt chính là cõi nước Phật chứ chẳng có tịnh độ nào khác, tướng người là tướng người càng không có cái gì là tưống màu vàng. Người tu chánh định, nghe lời của vị ấy liền bỏ hết sở học mà theo học, bỏ cả định tâm đã tu đắc lấy thân mạng quy y, hân hoan chưa từng có. Hạng người mê tín ấy cho người đó là nhục thân Bồ tát, xem ra thì người đó muốn phá hoại luật nghi của Phật, lén lút làm những việc dâm dục cẩu thả. Miệng khéo nói mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là tịnh độ, nam căn nữ căn là chân chính Bồ đề Niết bàn. Hạng người ngu ngày thường không nghiên cứu kinh điển, không nghe giảng pháp nên tin vào lời nói ô uế của người ấy, cho rằng đúng là bí mật ngàn năm không truyền. Nguyên lai   loài độc quỷ ấy gặp trùng thành hình, cho đến loài Ma mạt quỷ gặp u thành hình, tuổi già thành ma, chịu sự sai khiến của ma vương đến não loạn người tu chánh định, chờ khi định lực của vị ấy bị phá thì mới bằng lòng rời khỏi thân thể vị ấy. Ma đã không gá vào thì oai đức cũng hết, khi ấy bị quan lại biết về cái tội lấy lời yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan bảo vệ phong hoá truyền lệnh bắt ma trò ma thầy tống vào ngục, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là phát hiện thì mới vượt ra khỏi luân hồi không đoạ sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián.   

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn thì cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm có thể rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân di đến tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định đắc ở hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn khi tu chánh định, bỗng nhiên khởi lên một niệm, cái tâm ái ở kiếp lâu xa cảm ứng trôi chảy cùng khắp, tinh tế tư duy tham cầu khế hợp với tướng minh, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội sai khiến linh tinh gá vào thân người khác, miệng nói tương tự Phật pháp. Người bị ma gá ấy hoàn toàn không hay biết mình bị ma gá, ngược lại còn nói đã đạt đến Niết bàn vô thượng đi tìm người tu chánh định, tự thăng toà nói pháp, khiến thính chúng nhìn thấ́y tự thân mặt trẻ, tóc bạc của người già tu hành chẳng biết là mấy ngàn tuổi liền sinh khởi cái tâm ái nhiễm khó rời bỏ, bằng lòng làm nô lệ cho người ấy rồi mang tất cả y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men đến cúng dường mãi mãi không biết mệt mỏi. Người ấy khiến cho mỗi cá nhân dưới giảng tòa đều biết  mình là tổ sư của đời trước, cũng là thiện tri thức đời này, đặc biệt là sinh khởi một loại pháp ái, đối với thầy đối với pháp như keo dính chặt không thể rời nhau và vui thú chưa từng có. Người tu chánh định hồ đồ nhận người ấy là một vị Bồ tát sống, rồi thân gần, huân nhiễm lâu ngày, tin vào tà thuyết của người đó, phá hoại luật nghi của Phật, lén lút làm các việc dâm dục cẩu thả. Người bị ma gá mở miệng là nói: Ta ở kiếp trước, trong mỗi kiếp trước hết là độ cho một người, khi ấy hắn là vợ, là thiếp, là anh em, chị em của ta kiếp này ta với hắn cũng là nhân duyên nhiều kiếp, nay ta muốn độ cho người để mỗi người đến một thế giới, cúng dường cho mỗi vị Phật! Hoặc giả nói: Có một cõi trời Đại quang minh, có một vị Phật ở đó, hết thảy Như Lai đều có mặt. Kỳ thật, cái gọi là nhân duyên, chẳng qua là muốn dụ hoặc cô nàng mà thôi. Cái gọi là cõi trời Đại quang minh, chẳng qua là cung điện của ma vương. Nhưng người tu chánh định vẫn tin vào lời cuồng vọng của vị ấy, đem định tâm đã tu đắc phó mặc. Nguyên lai   Lê dịch quỷ ấy gặp suy thành hình, tuổi già thành ma, chịu sự sai khiến của Ma vương đến não loạn người tu chánh định, chờ đến lúc định lực bị mất thì mới bằng lòng rời khỏi thân thể người gá vào. Ma đã đi thì oai đức cũng hết, khi ấy bị quan quyền biết cái tội lấy lời yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt hết thầy trò ma tống vào ngục, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là phát hiện, tỉnh giác thì mới có thể  vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn tất là bị đoạ vào địa ngục Vô gián. 

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn thì cái thấy, cái nghe đều được cùng khắp, tâm có thể rời thân cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân, đi đến tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định đắc ở hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn khi tu tập chánh định, bỗng nhiên khởi lên một niệm, tâm ái biết cái chỗ người không biết, thấy cái chỗ người không thấy, không từ gian khổ, nghiên cứu, tư duy, tham cầu túc mạng trí, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội rồi sai khiến tinh linh gá vào thân người khác, nói ra tương tự Phật pháp. Người bị ma gá ấy hoàn toàn không hay biết mình bị ma gá vào, ngược lại cho rằng đã đạt đến Niết bàn vô thượng, đi tìm người tu chánh định, tự thăng toà nói pháp, khiến cho thính chúng, mỗi người đều biết nghiệp của mình. Hoặc giả nói rằng: Anh A hiện nay vẫn chưa chết nhưng đã biến thành súc sanh, để chứng minh chính xác lời nói của người ấy hắn sai anh B ở sau lưng anh A giữ anh A không đứng dậy được làm cho thính chúng không ai không kính phục. Hoặc giả trong số đó có người khởi lên tâm lý chống đối, người ấy liền biết chỉ ra người chống đối biểu thị cho các sự việc ở quá khứ, hiện tại, vị lai   hắn đều biết rõ. Ngoài các luật nghi do Phật chế, càng gia tăng khắc khổ. Hoặc là đoạn trừ ngũ vị tân, không ăn thức ăn của người đời. Hoặc là khoả thân, cạo tóc, giữ giới ngựa chó cho đến các hành vi lạ lùng quái dị, ngược lại còn hủy báng tỳ kheo, nói là không khắc khổ, mắng nhiếc sau lưng đồ chúng, hiển lộ ra là không có ý gì riêng tư. Đến thời điểm thì chẳng có gì ứng nghiệm. Nguyên lai   quỷ thần ấy có thần thông rất lớn, tuổi già biến thành ma chịu sự sai khiến của Ma vương đến não loạn người tu  chánh định, đợi đến lúc định lực mất thì mới bằng lòng rời khỏi thân thể  người mà hắn gá vào. Ma đã rời khỏi ắt là oai đức cũng hết, khi ấy bị quan lại biết cái tội lấy lời yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt hết thầy trò giam vào ngục, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là tỉnh giác thì mới có thể vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn ắt bị đoạ vào địa ngục Vô gián.  

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn thì cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm có thể rời thân cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân, đi đến tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định, đắc ở hiện tiền . Nếu ở trong tưởng uẩn khi tu chánh định bỗng nhiên khởi lên một niệm, tâm ái muốn vào sâu định cảnh, khắc kỷ tu hành, không tránh gian khổ, thích ở chỗ thâm u vắng vẻ, tham cầu tịch tĩnh, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội sai khiến tinh linh gá vào thân người khác, nói ra tương tự Phật pháp, người bị ma gá ấy hoàn toàn không hay biết mình bị ma gá, ngược lại còn cho rằng đã đạt đến Niết bàn vô thượng, đi tìm người tu chánh định tự thăng toà nói pháp. Bỗng nhiên tại chỗ nói pháp vô cớ nhặt được một viên ngọc quý lại biến thành súc sinh, trong miệng ngậm viên ngọc, hoặc là thứ trân quý nhiều màu sắc, hoặc là ngậm sách, các loại thư tịch, hoặc là ngậm ấn tín cùng các thứ lạ lùng khác, trước hết là trao cho mỗi người, sau đó đặt lên mình mỗi người, hoặc giả dụ hoặc thính chúng nói là có minh nguyệt bảo châu cất giữ trong lòng đất, quả nhiên trong một khối đất có ánh sáng lấp lánh của ngọc quý, đến nỗi niềm hân hoan của thính chúng trước nay chưa từng có. Người ma gá ấy, ngày thường thường ăn dược thảo như các loại xương Bồ, hoàng tinh, không ăn cơm nhưng thân thể vẫn mạnh khoẻ, mặt mày đầy đặn, giai do là nhờ ma lực giữ gìn, có khi thì bài báng người xuất gia, không chịu tu khổ hạnh, có khi thì mắng nhiếc đồ chúng của mình ăn no suốt ngày không chú tâm gì cả, lời nói thẳng không huý kỵ, miệng thì nói chỗ nào có bảo tạng gì, chỗ nào có thánh hiền, giả sử có ai đi tìm kiếm, thỉnh thoảng phát hiện thường có người kỳ dị, mọi người đều tin có thánh hiền ẩn cư tại đó. Nguyên lai   vị ấy chỉ là thần núi, hoặc là thổ địa, hoặc thần rừng, hoặc là thành hoàng, các quỷ thần có chút phước đức, tuổi già biến thành ma, làm sứ giả của Ma vương, tuyên nói các việc dâm uế, phá hoại luật nghi của Phật. Thầy trò chúng lén lút truy cầu năm dục, có khi chuyên ăn dược thảo, có khi chuyên ăn rễ cây cho là tinh tấn, có khi sân nhuế, có khi hoan hỷ, có khi tinh cần, có khi giãi đãi, có khi thành tín, có khi nghi kị, hết thảy hành vi không có tiêu chuẩn nhất định. Đến lúc người tu chánh dịnh mất hết định lực thì mới bằng lòng rời khỏi thân thể của người gá vào. Ma đã đi rồi thì oai đức không còn gì, lúc ấy bị quan lại biết cái tội lấy lời yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt hết thầy trò giam vào ngục, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước hết là tỉnh giác thì mới có thể vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián.  

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn, thì cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm có thể rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân đi đến tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư của thọ uẩn, viên thông diệu định đắc ở hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, khi tu tập chánh định, bỗng nhiên khởi lên một niệm, tâm ái các hiện tượng thần diệu khó lường, thông đạt các biến hoá không ngăn ngại, do vậy mà nghiên cứu tìm tòi nguyên nhân của biến hoá, tham cầu sức mạnh của thần thông liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội rồi sai phái tinh linh gá vào thân thể người khác, nói ra tương tự Phật pháp. Kẻ bị ma gá đó hoàn toàn không hay biết mình bị ma gá, ngược lại còn cho rằng đã đạt đến Niết bàn vô thượng đi tìm người tu chánh định tự thăng toà nói pháp. Có khi tay nắm lửa, có khi dùng tay phóng ra lửa đặt vào đầu của mỗi người trong thính chúng, ngọn lửa ở trên đầu bốc cao đến mấy thước nhưng không bị cháy, không đau. Có khi đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, có khi nhảy vào hư không ngồi yên bất động, biểu thị không tức là sắc. Có khi bước vào trong bình hoa, hoặc đi vào bao vải biểu thị ý nghĩa lớn nhỏ tương dung; có khi xuyên qua vách tường ra vào tự do không hề vướng ngại, các thứ đao, kiếm, búa đều không dám mạo phạm. Vị ấy nói vị ấy là Phật. Lấy một người thế tục mặc áo trắng lại dám nhận sự lễ bái của tỳ kheo. Có khi bài báng tông môn, bài báng luật học, nói là giáo nghĩa tiểu thùa. Tự xưng là Phật là phá hoại Phật bảo; phỉ báng thiền luật là phá hoại pháp bảo, nhận lễ bái của tỳ kheo là phá hoại tăng bảo. Có khi mắng nhiếc đồ chúng để tỏ ra vô tư, không trách cơ hiềm, không biết húy kỵ, mở miệng là nói đến thần thông biến hoá tự tại không vướng ngại. Có khi làm cho người khác thấy nước Phật, những hiện tượng ấy đều là thần thông của yêu quỷ mê hoặc kẻ khác, chứ hoàn toàn không phải là thần thông chân chính. Có khi lại tán thán hành dâm, nói rằng giao cấu giữa nam nữ có thể giúp cho pháp thân thường trụ, mà còn không huỷ phạm giới hạnh, đem những việc ô uế ly bỉ làm pháp khí truyền đạo. Nguyên lại là đại lực tinh quái của trời đất, hoặc giả sơn tinh, hoặc là thuỷ tinh, hoặc là phong tinh hoặc là hết thảy cây to cỏ lạ nhận linh khí của trời đất, hút tinh hoa của mặt trời, mặt trăng, tích tập từ nhiều kiếp đến nay thaǹh tinh mạt. Hoặc là rồng giữ cung điện ở cõi trời, rồng phục tàng trộm linh khí của trời, cướp tinh của vật mà thành yêu mạt. Hoặc là hạng tiên cuối đời, khi sống lại biến thành mạt. Hoặc là hết phước báu của tiên, tính tuổi tác thì không thể chết, nhưng hình tiên không biến hoá, lại bị yêu mạt khác gá vào, mượn thây ma mà hoàn hồn, tuổi tác già biến thành con ma già. Loài quỷ linh tinh ấy, làm sứ giả của Ma vương, đem người tu chánh định mà não loạn cho đến độ vừa ý thì mới chịu rời khỏi thân thể người bị ma gá . Ma đã đi rồi thì oai đức cũng hết, khi ấy bị quan lại biết cái tội lấy lời yêu ma mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt hết thầy trò giam vào trong ngục thất, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là phát hiện thì mới có thẻ vượt ra khỏi luân hồi, không đọa vào sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não hại tất bị đọa vào địa ngục Vô gián.  

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn thì cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm có thể rời thân, cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân đi về tự tại không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định đắc tại hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, khi tu tập chánh định bỗng nhiên khởi lên một niệm, tâm ái tịch diệt, tư duy, tìm kiếm thể tính của vạn hoá cho đến cái tướng động của tưởng uẩn, muốn cho thân cảnh đều không, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội rồi sai phái tinh linh gá vào thân người khác, nói ra tương tự Phật pháp. Người bị ma gá ấy, hoàn toàn không hay biết mình bị ma gá, lại còn cho rằng đã đạt đến Niết bàn vô thượng, tìm đến  người tu chánh định, tự thăng toà nói pháp, thường ở trong đại chúng thân thể biến thành không, bỗng nhiên không thấy, rồi lại từ trong hư không, bỗng nhiên xuất hiện, hoặc ẩn mình, hoặc hiện thân đều được tự tại. Hoặc hiện ra thân trong suốt như pha lê, hoặc tay chân cử động liền phát ra mùi hương chiên đàn, hoặc đi đại tiểu tiện ngọt như đường. Có khi phỉ báng người giữ giới là đạo tiểu thừa, khinh thị người xuất gia, nói là không được cái thân không, mở miệng là nói không nhân không quả, chết là mãi mãi đoạn diệt. Sau khi chết hoàn toàn không tái sinh, không có phân phàm phu với bậc thánh, tất cả đều đồng quy ở chỗ chấm dứt. Vị ấy lấy đoạn diệt làm không tịch, do đó mà không ngại ở dâm dục, lén lút làm nhiều việc tham dục, người nhận sự dâm dục của vị ấy cũng đắc tâm không, gọi là Trì pháp tử, đã đắc tâm không thuộc chân truyền, do đó mà bác không có nhân quả. Đó là khi đang nuốt mặt trời, mặt trăng. Mặt trời thuộc dương tinh, mặt trăng thuộc âm tinh, mỗi thứ đều có cái khí quang hoa lan toả nhân gian chiếu khắp mặt đất, các loài trên mặt đất như kỳ lân, phụng hoàng, bạch hạc, cho đến vàng, ngọc, cây, cỏ đều nhận được tinh hoa của mặt trời mặt trăng, có thể sống lâu đến ngàn vạn năm không chết, biến thành tinh linh sinh ra ở cõi nước, thành vật ma, hoặc cầm ma, hoặc là thú ma, gián tiếp đến não loạn người tu chánh định, chờ đến khi mất hết định lực thì mới bằng lòng rời khỏi cái thân thể gá vào. Ma đã rời khỏi ắt oai đức cũng không còn, khi ấy bị quan lại biết cái tội lấy lời yêu mị mà mê hoặc quần chúng, cơ quan phong hoá truyền lệnh bắt cả ma trò, ma thầy bỏ vào ngục, quốc pháp ắt không dung tha tội chết. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là tỉnh giác thì mới có thể vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ vào sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não hại tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián.  

            Người tu tập chánh định, sau khi phá xong thọ uẩn thì cái thấy, cái nghe đều cùng khắp, tâm có thể rời khỏi thân cũng như chim ra khỏi lồng, thành tựu ý sanh thân đi về tự tại, không bị hoặc loạn bởi tà tư thuộc thọ uẩn, viên thông diệu định, đắc tại hiện tiền. Nếu ở trong tưởng uẩn, khi tu tập chánh định bỗng nhiên khởi lên một niệm, tâm thích sống lâu, nổ lực nghiên cứu tướng động nhỏ nhiệm của tưởng uẩn, trù hoạch phương pháp phá trừ cái sanh đến, chết đi; chết đi sanh đến, từng phần từng đoạn của phân đoạn sống chết, hy vọng ở ngoài ba cõi, tâm niệm biến dị, trôi chảy trong sống chết biến dị vô hình, đắc cái tướng thường trụ vi tế, liền có thiên ma lục dục tìm cơ hội rồi sai phái tinh linh gá vào thân người khác, nói ra tương tự Phật pháp. Người bị ma gá hoàn toàn không hay biết mình đang bị ma gá vào còn cho rằng đã đạt đến Niết bàn vô thượng, tìm đến người tu tập chánh định tự thăng toà nói pháp. Chúng thường nói đến tình hình của thế giới phương khác cách xa cả vạn dặm nhưng chỉ trong nháy mắt là có thể đi, về hoàn toàn không vướng ngại. Lại thường đem những gì thuộc thế giới phương khác đến đó để làm chứng cứ. Hoặc là một nơi nào đó, hoặc là một căn phòng chỉ cách không quá mấy bước rồi bảo người khác bắt đầu đi từ phương đông thật nhanh, tuy trãi qua tháng rộng năm dài nhưng vẫn không thể đi đến phương tây, do đó mà chứng minh, đất có thể khiến cho nó rộng hẹp, thời gian có thể khiến cho nó dài ngắn, người đời thấy vậy tâm liền kính phục, cho rằng vị ấy là chân Phật hạ phàm. Lại thường nói rằng: Chúng sanh trong mười phương đều là con cái của ta, chư Phật và thế giới đều do ta sinh ra, ta là vị Phật thứ nhất, hiện nay vẫn tồn tại như trước để thấy mạng sống lâu dài không ai có thể bì kịp. Ta là Phật thuộc tự nhiên nhi nhiên, chẳng giả tu thành, tu cũng chẳng có gì lợi ích. Nguyên lai   vị ấy là thiên ma thứ sáu, sai phái thuộc hạ của mình, tuy chịu sự quản lý của bốn thiên vương, nhưng loài quỷ Dịch sử và quỷ ăn tinh khí chưa từng phát tâm hộ pháp nên lợi dụng cái tâm hư minh của người tu hành, ăn tinh khí của họ để nuôi dưỡng cái thân ma, để phát tà tuệ, hoặc giả khỏi cần gián tiếp mượn thân người khác gá vào mà trực tiếp từ người tu chánh định, tự nhìn thấy ma vương hiện thân, tự xưng là chấp kim cương cho đựoc sống lâu, sau đó lại hiện ra cô gái đẹp để dẫn dụ, mê hoặc người tu chánh định ấy, tự thị mình đã đạt đến cái thuật của kim cương kiên cố, thân thể cường tráng cùng làm việc dâm dục với cô gái đẹp ấy, chưa đầy nửa năm hay một năm, bị cô nàng hấp thu đến nỗi não bộ không còn dịch, tinh huyết tiêu kiệt. Người tu chánh định tuy thường đối thoại với ma nhưng người chung quanh không nghe, không thấy, chẳng qua trong tâm lý cũng biết cô nàg là yêu tinh mà thôi. Còn như tu chánh định đang cơn mê thì không biết cô nàng là yêu tinh, hoặc là bị quan lại phát giác bắt giam vào ngục, như ng khi vị ấy hành dâm với ma thì tinh lực đã khô kiệt, chưa kịp chịu hình phạt thì đã chết khô. Các ông cần quan sát, việc trước tiên là tỉnh giác, phát hiện thì mới có thể vượt ra khỏi luân hồi, không đoạ vào sống chết, thảng như mê hoặc không biết, một khi bị ma não loạn tất là bị đoạ vào địa ngục Vô gián.   

            Này A Nan! Ông nên biết, mười loại âm ma ấy, ở thời kỳ mạt pháp, giả mượn cái danh tin Phật xuất gia tu hành để mưu đồ phá hoại Phật pháp là thật, hoặc là gá vào thân thể người khác, hoặc là tự hiện thân đều nói là đã thành tựu chánh đẳng, chánh giác. Chúng tán thán hành dâm, cho rằng đó là bí quyết để thành Phật, phá hoại luật nghi ảnh hưởng đến danh dự của Phật giáo. Còn như ma thầy đã chỉ ra ở trên cùng đệ tử  của chúng, lấy dâm truyền dâm, tà mạt vào tâm phủ, người đời không biết nên đề cao. Sau khi Như Lai diệt độ, gần ắt trong khoảng chín trăm năm; xa ắt trong thời gian ba ngàn năm, trong khoảng thời gian đó giúp cho những ai chân chính tu hành cầu đạo, nếu chuyển đổi làm quyến thuộc của ma vương thì tương lai   sau khi chết ắt là biến thành dân ma, mất hết chánh biến tri của Phật tính mà đoạ vào địa ngục Vô gián. Này A Nan! Ông chưa nên cầu nhanh chóng đắc tịch diệt, dù cho thành tựu quả A La Hán vẫn cần phát nguyện sanh vào thời kỳ mạt pháp, lấy cái tâm đại từ, đại bi cứu độ chúng sanh, thâm tín chúng sanh đều có Phật tính, giúp cho chúng sanh không dính mắc ma chướng, đạt đến chánh tri, chánh kiến. Như Lai hiện nay đã độ thoát ông, ông vẫn cần tôn tòng giáo giới của Như Lai để báo đáp ân Phật . Này A Nan! Trên đây là mười loại cảnh giới hiện ra trong tu tập chánh định đều bị tưởng uẩn che khuất, lấy thiền quán với vọng tưởng mâu thuẩn đấu tranh ở trong tâm cùng hơn thua nhau, do đó mới có sự tình phát sinh như thế. Chỉ vì chúng sanh xưa nay ngu si không biết tự lượng sức mình, bản thân chẳng qua là một kẻ phàm phu sống chết há lại chỉ trong một lúc đắc thành Phật? Nhân đó nên vị ấy một khi gặp được nhân duyên như vậy liền nói là đã thành Phật. Nào ngờ câu nói đại vọng ngữ ấy vừa ra khỏi cửa miệng liền thành khẩu nghiệp, tương lai   tất bị đoạ vào địa ngục Vô gián. Này A Nan! Các ông sau khi Như Lai diệt độ, ở trời kỳ mạt pháp, cần nhất là căn cứ vào những gì Như Lai nói, tuyên bố mười loại cảnh giới của tu thiền không để cho thiên ma thừa cơ hội đối với người tu chánh định, các ông cần khéo léo giữ gìn Phật pháp, che chở cho người tu hành giúp cho họ thành tựu Phật đạo vô thượng!

 

 

 

        

 

 

 

 

 

 

 

Trở về Mục Lục LNTD