Một đời làm Trưởng
Phúc Trung
Chương NămMột thời Gia Đ́nh Phật Tử xán lạn
31. Theo chân Ban Hướng Dăn Trung Ương họp ở Miền Khuôn Việt.
Hồi đó, Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đ́nh Phật Tử Việt Nam (BHDTW) mới thành lập, văn pḥng đặt tại Tổng Vụ Thanh Niên, đó là một công ốc ở đường Hiền Vương, gần công trường Dân Chủ, quận Ba Sàig̣n.
Mặc dù trong Ban Hướng Dẫn bấy giờ có anh Tống Hồ Cầm, Phó Trưởng Ban Ngành Nam, nguyên Trưởng Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPT Nam Việt, chị Đoàn Thị Kim Cúc Ủy viên Nữ Phật Tử, Gia Trưởng GĐPT Giác Hoa, nguyên Phó Trưởng Ban Hướng Dẫn GĐPT thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam, anh Đoàn Văn Lộc, Huynh Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử Chánh Đạo, là những người không nắm trực tiếp điều hành các GĐPT tại thủ đô Sàig̣n.
Hơn nữa, BHDTW muốn trực tiếp điều hành sinh hoạt tại Thủ Đô, nên các GĐPT tại thủ đô Sàig̣n thuộc miền Quảng Đức, đặt trực thuộc BHDTW, lại chỉ định một vài Huynh Trưởng phụ trách điều hành, trong đó có anh Lương Hoàng Chuẩn và anh Thịnh, h́nh như anh Thịnh là Liên Đoàn Trưởng GĐPT Chánh Đạt và Ban Đại Diện GĐPT miền Vĩnh Nghiêm cũng được yêu cầu dự họp với BHDTW trong các phiên họp định kỳ hàng tháng chỉ có Ban Thường Vụ hay tam cá nguyệt gồm các Ủy viên và Đại Diện Miền, tôi là Thư Kư ban Đại Diện Miền Vĩnh Nghiêm, nên thường thay mặt cho Bác Đại Diện Nguyễn Đức Lợi đi dự các phiên họp nầy.
Tại trụ sở Tổng Vụ Thanh Niên, lúc đó có các Vụ như Gia Đ́nh Phật Tử Vụ, Vụ Trưởng là anh Vơ Đ́nh Cường, Thanh Niên Phật Tử Vụ, Vụ Trưởng là anh Nguyễn Hữu Huỳnh, Sinh Viên Phật Tử Vụ, Vụ Trưởng là anh Trần Quang Thuận, Học sinh Phật Tử Vụ, Vụ Trưởng là anh Huỳnh Bá Huệ Dương. BDHTW thường họp vào tối Thứ Bảy cuối tháng từ 7 giờ trở đi. Văn pḥng Vụ Trưởng GĐPT vụ và BHDTW ở trên lầu, nhưng các phiên họp thường họp ở tầng trệt. Lúc đó thường dự họp có các anh Vơ Đ́nh Cường, Tống Hồ Cầm, Lương Hoàng Chuẩn, Lê Cao Phan, Nguyễn Văn Thục, Nguyễn Minh Hiền (Lữ Hồ), Nguyễn Khắc Từ, Cao Chánh Hựu, Lê Văn Lộc, Đoàn Lộc, Đỗ Đ́nh Kỳ, chị Đoàn Thị Kim Cúc, chị Phạm Thị Xuân Viên, trong các phiên họp tam cá nguyệt c̣n có anh Nguyễn Thanh Quang Đại diện GĐPT Miền Huệ Quang, Mă Thành Cưng Đại diện GĐPT Miền Khánh Ḥa, Trần Ngọc Giao Đại diện GĐPT Miền Khuôn Việt...
Vào dịp Hè năm 1965, lần đầu tiên BHDTW họp tam cá nguyệt ở Đà Lạt, phiên họp nầy do Miền Liễu Quán tổ chức. BHDTW muốn có những phiên họp tại các Miền, như vậy để tác động tinh thần sinh hoạt GĐPT địa phương và nắm được t́nh h́nh cụ thể của GĐPT trong miền.
Chùa Linh Sơn Đà LạtLần đó, vào sáng sớm anh chị em tập trung ở trụ sở Tổng Vụ, rồi có xe ca đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất, từ đó phi cơ quân sự đưa ra phi trường Liên Khàng. Chuyến đi nầy có anh Vơ Đ́nh Cường, Tống Hồ Cầm, Lương Hoàng Chuẩn, anh Lê cao Phan và Lữ Hồ thường gọi là Lương Hoàng Sám, Nguyễn Văn Thục, Lê cao Phan, Nguyễn Khắc Từ, Lữ Hồ, Cao Chánh Hựu ... lại có tháp tùng theo là chị Cường, chị Lữ Hồ, con gái anh Chuẩn và một hay hai chị nữa, tôi không nhớ là chị nào, chuyến bay nầy dành riêng cho phái đoàn BHDTW, chừng 20 người cả thảy.
Phi cơ đáp xuống phi trường Liên Khàng, có các anh Nguyễn Châu, Đoàn Văn Thiệp, Nguyễn Hữu Thạnh ra đón, tất cả lên xe một chuyến xe bus đi thẳng về chùa Linh Sơn.
Ban tổ chức sắp xếp, họp và ăn uống tại chùa Linh Sơn, ngủ nghỉ th́ ở Kư Nhi Viện nằm ở giữa đường đi từ chùa Linh Sơn ra chợ Hoà B́nh, nay là đường Vơ Văn Tần. Theo chương tŕnh, buổi chiều hôm ấy họp, buổi tối tự do, sáng hôm sau tham quan các chùa, viếng cảnh, sau cơm trưa chia tay.
Họp buổi chiều ấy cũng không có chi quan trọng, Các Miền thay phiên nhau báo cáo t́nh h́nh sinh hoạt trong Miền, đặc biệt Miền Khuôn Việt báo cáo t́nh h́nh cụ thể, rồi anh Tổng Thư Kư Cao Chánh Hựu báo cáo đại cương t́nh h́nh sinh hoạt trong toàn quốc, phương hướng sắp tới, sau buổi họp dùng cơm do các chị Mười, chị Lư trổ tài gia chánh.
Gia Đ́nh Phật Tử Đàlạt vào đầu thập niên 60 có xuất bản tập san Hoa Niên, một tập san có giá trị về h́nh thức lẫn nội dung, h́nh thức được sự chăm sóc của anh Thiệp nên rất mỹ thuật, có một Huynh trưởng là Cung Hữu Đàn, em ruột của chị Cung Thị Lan Phương vào học Đại Học ở Sàig̣n, nên anh ấy phát hành tạp san Hoa Niên ở Giác Minh, Chánh Đạo ... tôi có gửi đăng một kịch thơ Hoa bông bống nước, kịch nầy tôi phỏng theo mẫu chuyện đạo Tràng Hoa Bông Bóng trong quyển Phật Pháp, kịch đă được tŕnh diễn trong dịp lễ ra mắt của Gia Đ́nh Phật Tử Chánh Hạnh ở Châu Đốc, tập san nầy sau pháp nạn 63 có tái bản, dịp nầy tôi có xin anh Thiệp tập san có kịch thơ của tôi, rất lấy làm tiếc nay không c̣n giữ được.
Chiều tối hôm đó, anh Tuệ Linh lái một chiếc xe Jeep dân sự đến Kư Nhi Viện thăm chúng tôi, rồi anh mời anh Nguyễn Khắc Từ và tôi đi ăn, lúc đi anh Cầm quá giang xe đến nhà người quen, sau đó anh Tuệ Linh đưa chúng tôi đến Restaurant Sanghai là Nhà hàng Thượng Hải, ở khu chợ Ḥa B́nh, gần cà-phê Tùng cũng chẳng xa Kư Nhi Viện. V́ đă dùng cơm chiều rồi, mỗi người chúng tôi chỉ dùng một đĩa súp, uống một chai bia 33 thăm hỏi nhau và đề cập đến sinh hoạt, lâu ngày gặp lại hàn huyên trong bửa cơm chưa đủ, anh Tuệ Linh đưa chúng tôi ra nhà hàng Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương. Tôi chọn chỗ ngồi cho ḿnh, nh́n về phía khu chợ Ḥa B́nh, không gian trăi rộng mặt hồ, bên tay phải ở cuối đàng xa kia là thánh đường hay chủng viện, bên tay trái là con đường dẫn vào khu chợ, phía sau lưng là khách sạn Palace. Đêm ấy có trăng sáng, mặt hồ có sương mù làm mờ nhạt ánh đèn đêm, nhà cửa thấp thoáng ánh đèn, ẩn hiện với những cây thông, núi đồi mờ nhạt, tạo nên cảnh thành phố trong sương mờ, như bức tranh thủy mạc.
Trong khung cảnh đó, nhắc lại kỷ niệm năm xưa, lần đầu tiên chúng tôi quen biết nhau ở trong Đại Hội Huynh Trưởng Toàn Quốc kỳ IV tại chùa Xá Lợi năm 1961, lần nữa chúng tôi có với nhau nhiều kỷ niệm trong chuyến Phái đoàn Huynh Trưởng GĐPT Thủ đô ra thăm viếng Huế đầu năm 1964, chính anh Từ là người tổ chức tiếp đón phái đoàn, ba chúng tôi trực tiếp liên hệ với nhau, để xếp đặt các chương tŕnh thăm viếng, tham quan nào là chùa Bảo Quốc, Tường Vân, Từ Hiếu, Trà Am, Hồng Vân, nào là Đại nội, lăng tẩm các v́ vua Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định, Thiệu Trị, trại 9 hầm, lăng cậu Cẩn, mộ đại đức Thích Tiêu Diêu, gia đ́nh thánh tử đạo Nam Oanh Vũ Đặng Văn Công, dự trại họp bạn Quảng Đức tại Đàn Nam Giao ngày 12-1-1964...
Rồi anh Tuệ Linh ra ngoài xe, một chốc trở lại với một cái chai, anh nói : - Có người bạn ở Vĩnh Long vừa gửi cho chai rượu đậu nành, chúng ta mỗi người uống một ly để thưởng trăng đêm nay, ai có xúc cảnh thành thơ th́ càng hay.
H́nh như chúng tôi không ai có tâm hồn thi sĩ, hay không có thi hứng, nên chẳng ai sáng tác được câu thơ nào. Tôi hỏi anh Tuệ Linh v́ sao rời bỏ Thủ đô hoa lệ, bỏ anh em lên thành phố sương mờ nầy, anh cho biết cả gia đ́nh của chị Tuệ Tâm cũng dời lên đây, c̣n anh ở đường Quang Trung, nhà anh ở có cả một vườn hoa hồng, anh hứa rồi sẽ đưa chúng tôi đi thăm gia đ́nh chị Tuệ Tâm.
Đến khoảng mười giờ đêm, rời nhà thủy tạ, anh Tuệ Linh lái xe đưa chúng tôi đi thăm gia đ́nh chị Tuệ Tâm, ở một thôn ấp không xa thành phố, nay tôi không thể nhớ được, h́nh như là khu Quang Trung.
Xe chạy trên đường ngoằn ngoèo, hai bên có những cây thông cao che khuất bầu trời, để những vệt sáng trăng chiếu qua cành lá, khung cảnh có vẻ tịch mịch hoang sơ, mặc dù đang ngồi trên xe, nhưng nh́n ra khung cảnh bên ngoài, tôi cảm thấy ḿnh đang sống gần với thiên nhiên, với đồi núi và rừng thông.
Đến nơi, muốn vào nhà chị Tuệ Tâm, chúng tôi phải đi dưới một dàn giây leo, ban đêm tôi không trông rơ, h́nh như đó là giàn dưa Tây, đường vào nhà trên mặt đất lỗ chỗ ánh trăng và bóng tối. Vào trong nhà, chúng tôi được gặp chị Tuệ Tâm và chị Thanh Minh, chị Tuệ Tâm th́ vẫn nghiêm nghị, khắc khổ, trái lại chị Thanh Minh th́ lúc nào cũng dí dỏm. Gặp lại hai chị ấy, tôi nhớ thuở c̣n sinh hoạt ở Gia Đ́nh Minh Tâm, tại chùa Phước Ḥa, ngoài hai chị nầy c̣n có chị Kim Dung, cô Minh Châu, Định, cập Oanh vũ Y và Như.
Thăm viếng chốc lát, thấy đêm đă khuya, chúng tôi cáo từ, anh Tuệ Linh đưa chúng tôi trả lại Kư Nhi Viện. Đêm đó, các chị nằm nghỉ ở tầng trệt, c̣n anh em chúng tôi nằm trên lầu, tầng lầu nầy có lẽ dành để buổi trưa cho các em nằm ngủ, nên không có ǵ cả, trống trơn, tầng nầy lát gỗ, nhờ lau chùi mỗi ngày gỗ trở nên bóng nhẵn có màu vàng sậm.
Khi chúng tôi về tới, một số các anh đi thăm viếng người quen, hay dạo chơi đă về trước rồi, nhưng chưa ai ngủ cả, anh Cường đang nằm nói chuyện với anh Phan, anh Thục cũng chuẩn bị đi nằm, anh Từ và tôi đi thay quần áo ngủ, trở lại nh́n kỷ thấy các anh nằm thành hai dăi, chạy dọc theo chiều dài của căn pḥng, lối đi ở giữa, chân đối nhau. Khi ấy tôi mới để ư là mỗi người có tới 3 cái chăn để đắp, v́ chăn của trẻ em nên không đủ trùm cả người, thấy tôi sắp sửa nằm, anh Cường nói:
- Tông! Ở đây em là người trẻ nhất, hôm nay chịu khó phục vụ dùm, lấy chăn đắp cho các anh, chớ chăn nhỏ mỗi anh tự đắp hơi khó.
Có anh nào đó cũng phụ họa cho vui: - Ư kiến anh Cường hay đó ! Tông làm giúp cái chơi !
Tôi vui vẻ đáp ngay : - Tưởng ǵ chớ chuyện ấy dễ ợt ! Lâu ngày đàn em mới có dịp phục vụ các anh.
Nói xong tôi đi lấy chăn đắp cho anh Cường, anh Cầm và anh Chuẩn, c̣n những anh khác tự đắp cho ḿnh rồi. Đèn được tắt bớt, chuyện to nhỏ bên nhau vẫn c̣n, sức trai trẻ tôi ngủ tự lúc nào.
Khi tôi thức dậy, mọi người đă thức rồi. Tôi vội vàng xếp mấy tắm chăn, đi xuống tầng dưới xúc miệng, rồi thay y phục đi ăn sáng. Ngày hôm đó sau khi điểm tâm rồi có thời gian đi chợ mua sắm quà, khoảng 9 giờ mới đi viếng chùa Sư nữ Linh Phong. Sau đó đến tham quan Trại trường của Gia Đ́nh Phật Tử Việt Nam tại hồ Than Thở.
Bên kia đường cỏ úa hoang tàn có hai nấm mộ. Đó chính là Đồi Thông Hai Mộ, một mối t́nh kết quả bi thương, hai kẻ gặp nhau chăng ở chốn tuyền đài ? Cuộc đời khổ nhọc, bi thảm cũng bởi vô minh mà ra. Mồ cỏ úa hoang tàn, chắc không có bàn tay thân nhân chăm sóc. Tôi nhớ tới bài ca Đồi yhông hai mộ của nhạc sĩ Hồng Vân, đoạn cuối có:
“…. Rồi mộ chàng đă được ở cạnh nàng
Như lời xưa thề ước
Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc
Dưới mộ sâu đất khô
Qua bao năm rêu xanh phủ che kín
Âm u chẳng nhang khói
Trời xuôi chi trên cây c̣n lá úa
Lá xanh kia rụng rồi.”Đồi thông hai mộ là một câu chuyện t́nh xót xa và có thật. Đó là câu chuyện của cô gái Lê Thị Thảo và chàng Trai Vũ Minh Tâm. Minh chứng cho câu chuyện t́nh đó chính là hai ngôi mộ nằm trên đồi thông 60 năm qua.
Chuyện kể rằng người con trai tên Tâm, con của đại điền chủ G̣ Công, v́ là con một nên cha mẹ bắt lấy vợ sớm để có con nối dơi. Anh v́ một phần chưa muốn lập gia đ́nh, phần khác v́ không muốn cha mẹ buồn nên đă lén đầu quân vào trường Vơ Bị Đà Lạt. Thời gian học ở đây anh quen một người con gái gia đ́nh công chức, cô gái tên là Thảo.
Hai người yêu nhau tâm đầu ư hợp, thề non hẹn biển. Ra trường Tâm về nhà xin cha mẹ cho cưới Thảo nhưng gặp phải sự phản đối quyết liệt. Cha mẹ bắt anh phải cưới người con gái mà anh không hề yêu mến. V́ lẽ đó Tâm đă xin chuyển đến một vùng tuyến đầu lửa đạn.
Khi Tâm rời trường Vơ Bị ra chiến trường, Thảo đă vô cùng đau khổ khi biết gia đ́nh Tâm không chấp nhận chuyện của hai người. Và c̣n thêm nỗi lo cho người yêu ở chiến trường. Có biết bao người đến mối mai dạm hỏi nhưng cô đều từ chối. Niềm vui lẽ sống của cô lúc này chỉ là những bức thư được gửi về từ chiến trường.
Cho đến một ngày Thảo nhận được tin báo tử từ chiến trường gửi đến. Thảo vô cùng đau khổ nàng t́m đến khu đồi thông bên bờ hồ Sương Mai (nay là hồ Than Thở) nơi hai người xưa kia từng hẹn thề.
Quá xót xa nàng đă tự tử, trên tay vẫn giữ chặt bức thư t́nh gửi người yêu. Khi chết cô xin gia đ́nh chôn ở trên đồi thông đó. Nhưng trớ trêu thay Tâm chưa chết, người ta đă nhầm khi báo tử. Khi trở về Tâm hay tin Thảo đă chết, quá đau buồn và xót xa cho người yêu anh đă quyết định chết theo cô.
Để giữ trọn lời hẹn thề với người con gái anh yêu. Trước khi chết anh để lại bức thư xin được chôn cạnh mộ cô đển hai người được măi gần nhau.Gia đ́nh và bạn bè đă chôn anh kề bên ngôi mộ của Thảo.
Sau năm 1975, cha mẹ Tâm đă cho bốc mộ anh đưa về quê, do hai người đă tuổi cao sức yếu, không thể thường xuyên lên thăm mộ con. Dù hài cốt Tâm đă được dời đi, nhưng cảm thương mối t́nh chung thủy, gia đ́nh Thảo vẫn để ngôi mộ đôi.
Đồi thông hai mộTrở lại chùa Linh Sơn dùng cơm trưa, rồi ra xe đến phi trường Cam Ly chờ phi cơ đón về. Các anh chị ở Đàlạt đưa đến đó, chia tay nhau rồi họ trở về chùa để sinh hoạt với các em. Chúng tôi đợi phi cơ rất lâu mới có một chiếc đáp xuống, phi công cho biết họ phải đi Nha Trang không thể đưa chúng tôi về Sàig̣n, họ khuyên nên liên lạc với Sàig̣n để xin chuyến bay khác. Nhưng ở Sàig̣n trả lời phải ngày hôm sau mới có. Anh Lữ Hồ nói :
- Phải biết trước như vậy, nhà tôi xin một chuyến USOM bảo đảm hơn.
Nhiều người cho biết ư kiến là cần phải về, v́ ngày mai Thứ Hai c̣n phải đi làm. Anh Cường nói với anh Hựu :
- Hựu xem tiền c̣n đủ hay không? Ra chợ thuê một chuyến xe đi về, nếu không có đủ tiền th́ mượn đỡ các anh chị ở đây, về Sàig̣n gửi ra trả.
Anh Hựu đáp ngay : - Dạ tiền th́ có sẵn đây, nhưng không biết có c̣n xe hay không, để em đi ngay.
Thế là anh Hựu đi thuê xe, c̣n các anh các chị ngồi đó chờ, buổi trưa ngồi ở phi trường Cam Ly nh́n trời, nh́n cảnh, nh́n ḍng nước ở thác Cam Ly chảy, ḷng tôi thật thảnh thơi, nhớ tới năm, sáu năm trước cũng một chuyến đi Đàlạt với Đoàn Huynh Trưởng A Dục đầy phấn khích.
Cuối cùng anh Hựu mướn được chuyến xe đ̣ lở, chúng tôi lên xe, chào từ giả thành phố hoa hồng, ḷng vẫn mong có ngày tái ngộ.
Xe chạy đến đèo Bảo Lộc th́ bị ngừng lại, tôi vẫn tưởng kẹt đèo, đèo nầy dài chừng 10 cây số, lúc đó đường nhỏ hẹp, mỗi lần xe chỉ chạy một chiều qua đèo, chiều kia phải ngừng lại chờ, lúc đầu c̣n ngồi trong xe, sau vừa đợi lâu vừa nóng nực nên tất cả xuống xe, chia nhau ngồi từng nhóm nhỏ tṛ chuyện. Ngay đó có một căn nhà bên đường, có vài anh đă vào trong đó nghỉ.
Một lúc sau, tôi cũng đi vào đó, căn nhà lợp lá, vách phên, gian trước ở chính giữa có một bàn thờ đóng bằng gỗ tạp, kê dựa vách, có hai bộ ván, bộ ván phía tay phải có kê thêm một cái bàn gỗ h́nh chữ nhật, trên bàn có một b́nh trà, một cái đĩa bàn để mấy cái ly thủy tinh, lâu ngày đă ngă màu vàng, cạnh đĩa ly lại có một cái đĩa bàn đựng mấy củ khoai lang nơn nà c̣n phơn phớt tỏa khói. Anh Cường ngồi trên bộ ván đó cạnh một đầu bàn, đầu bàn kia là anh Phan ngồi, sau hai anh ấy c̣n có vài anh khác ngồi hay nằm, bộ ván bên tay trái nhiều anh em trẻ ngồi, tôi để ư nh́n không thấy chủ nhà. Tôi không hiểu có ai quen với chủ nhà mà lại được đăi nước trà với khoai lang luộc, nếu không có ai quen, quả chủ nhà là người hiếu khách, ǵn giữ được tạp quán của dân tộc chúng ta.
Tôi chọn bộ ván bên tay trái ngồi, nghe anh Cường kể chuyện, tôi không rơ anh ấy kể chuyện chi, nhưng có vẻ hấp dẫn và bi thương v́ ai cũng yên lặng để lắng nghe, anh kể tiếp :
... cho đến người cuối cùng cũng chết, không c̣n ai nữa để chôn cất cho anh ta. Tất cả mọi người trong thung lũng đều đă chết. Từ đó người ta đặt cho thung lũng ấy tên là Thung Lũng Chết.
Nhiều người đọc tác phẩm Ánh Đạo Vàng, Thử Ḥa Điệu Sống... mấy ai đă nghe anh Cường kể chuyện ? Một câu chuyện bi thương, tiếc rằng tôi chỉ nghe được có đoạn kết, nhưng nó lắng đọng trong tâm tư của tôi từ năm nọ chồng chất sang năm kia.
Rồi cũng đến lúc chúng tôi lên xe đi về, xe chạy một đổi chúng tôi thấy có vài anh lính trận, mặc quần áo rằn ri xốc xếch, người mệt mỏi, vẻ mặt căm hờn hay giận dữ, lầm ĺ xách súng đi bên đường, cánh rừng ven theo con lộ từng cụm khói c̣n bốc lên, chứng tỏ chiến trận vừa mới xảy ra, cảnh ấy làm cho người ta sao khỏi nhớ tới Chinh Phụ Ngâm:
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruỗi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đă điểm sương mới về.Về đến Sàig̣n trời đă gần tối, chúng tôi chia tay nhau khi xe dừng lại ở đường Hiền Vương gần trụ sở Tổng vụ, mỗi người uể oải trở về nhà ḿnh. H́nh ảnh người đi trước tôi, anh ta mặc một chiếc sơ mi màu lam tay dài, quần dài cũng màu lam, đầu đội nón bánh ú, người ốm cho nên thấy hơi cao. Đó là cái lưng của anh Thịnh, h́nh ảnh sau cùng anh đă để lại trong tôi, sau nầy nghe nói anh đă hy sinh trong màu áo Cảnh sát Quốc gia.
Ngày nay viết những ḍng nầy gợi nhớ tới chuyến đi họp của BHDTW ở Đàlạt năm xưa, các anh Lương Hoàng Chuẩn, Nguyễn Minh Hiền, Nguyễn Khắc Từ, chị Trần Thị Kim Tâm đă an giấc ngh́n thu trong chốn trần lao cát bụi nầy.
Thời đó, người ta thương yêu nhau, đoàn kết với nhau, trên dưới một ḷng, anh anh, em em hết dạ tôn kính nhau, hăng say hoạt động cho phong trào, v́ phong trào. Phải chăng đó chính là thời vàng son của Gia Đ́nh Phật Tử.