THẤY VÔ NGĂ LÀ THẤY PHÁP THẤY PHẬT
NHƯ KHÔNG (gsnhukhong@gmail.com)
Một lần ngài Vakkali bị trọng bệnh lâu ngày nên không gặp được Thế tôn, khi được đức Thế Tôn đến thăm, ngài Vakkali than thở:
- Đă từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.
Đức Phật trả lời:
13) - Thôi vừa rồi, này Vakkali, có ǵ đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Đang thấy Ta, là thấy Pháp.
Sau đó Đức Phật giáo giới cho ngài Vakkhali thế nào là thấy Pháp và thấy Phật, như sau:
14) - Này Vakkali, Ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái ǵ vô thường, là khổ hay là lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái ǵ vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lư chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngă của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
Rồi cũng như thế Đức Phật lặp lại sự nhắc nhở với tất cả 5 uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) để cho ngài Vakkhali thấy rơ tất cả đều VÔ NGĂ. Sau đó Phật kết luận:
- Do thấy vậy vị ấy biết "sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những ǵ nên làm đă làm, và không c̣n trở lui trạng thái này nữa”.
Giáo giới xong Đức Thế Tôn từ giả ra đi. Đi không bao lâu, ngài Vakkhali sai thị giả khiêng giường ḿnh ra sườn đồi để Phật và các đệ tử có thể quan sát từ xa, sẽ thấy ngài chết trong sự giải thoát khi chứng kiến sự thất vọng của ác ma bay loanh quanh mà không t́m ra thần thức của ngài đi đâu sau khi chết. Bởi v́ ngài đă hoàn toàn giải thoát ra ngoài tam giới, ra ngoài tầm mắt của ác ma. (xem trọn câu chuyện ở đây: http://budsas.net/uni/u-kinh-tuongungbo/tu3-22e.htm )
Qua câu chuyện trên, ta có thể hiểu được rằng đức Phật chỉ cách thấy Pháp thấy Phật bằng sự giác ngộ SỰ THẬT VÔ NGĂ, tức thấy tất cả 5 uẩn đều không phải là TA, không phải là CỦA TA, để không c̣n tham ái bám víu, để chấm dứt sự ngụp lặn theo sinh diệt của chúng. Đó chính là “Sanh đă tận”. Đó là “phạm hạnh đă thành”, v́ không c̣n có chút ǵ để bị ô nhiểm. Đó là “những ǵ nên làm đă làm”, bởi khổ đau đă được diệt tận, đă đạt được mục đích của sự tu hành. Đó là trạng thái hoàn toàn giác ngộ VÔ NGĂ, “không c̣n trở lui trạng thái này (VÔ MINH CHẤP NGĂ) nữa”. Đạt được tŕnh độ đó là kể như đă nhận ra được “dáng dấp” của PHẬT”.
Tuy nhiên không phải các vị A la hán chỉ nghe Phật nói VÔ NGĂ rồi cứ tin VÔ NGĂ là chứng đạo. V́ đạo Phật là đạo “đến để thấy” chứ không phải là đạo để tin. Khi nghe xong, người nghe phải tự ḿnh THỰC CHỨNG VÔ NGĂ bằng cách khảo sát ngay BĂN NGĂ của ḿnh. Thiếu sót điều đó sẽ không có THỰC CHỨNG và sẽ không dứt sạch sự CHẤP NGĂ. Cũng ví như với một người mà, xưa nay khi nào cũng chỉ thấy nước biển xanh ngắt, người đó phải chính ḿnh nh́n thẳng vào trong nước biển, để thấy nước biển thực sự “trong veo”, mới có thể hoàn toàn phá tan sự lầm tưởng nước biển “xanh ngắt” như đă thường thấy.
Không thể có sự chứng ngộ VÔ NGĂ nếu không “chiếu kiến” BĂN NGĂ của ḿnh. Bởi lẻ đó Kinh Bát Nhă mới khẳng định rằng “Chư Phật 3 đời đắc vô thượng giác đều nhờ hành thâm bát nhă”. Nói như vậy có nghĩa là tất cả các vị Phật, trong mọi thời, trong mọi thế giới, đều thành Phật bằng cách dùng minh sát tuệ để “Chiếu Kiến Ngủ uẩn”, khảo sát chính ḿnh, thực hành TỨ NIỆM XỨ”. Nói như vậy có nghĩa là không hề có một vị Phật nào thành Phật mà không đi qua sự Hành Thâm Bát Nhă, tức thực hành TỨ NIỆM XỨ. Như vậy th́ cả Bắc Tông lẫn Nam Tông đều xác nhận Tứ Niệm Xứ là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT để đi đến Niết Bàn.
Tứ Niệm Xứ ngoài ư nghĩa b́nh thường là cách thấy TRỰC TIẾP (direct), vi ḿnh nh́n thẳng vào ḿnh, không qua trung gian, c̣n có một ư nghĩa quan trọng hơn là cách thấy ĐỘC NHẤT để chứng ngộ VÔ NGĂ, để chấm dứt khổ đau, để đạt đến niết bàn. Ư nghĩa ĐỘC NHẤT là ư nghĩa quan trọng nhất mà Phật muốn nhấn mạnh. Bởi ngài không muốn chúng sanh mất th́ giờ tu hành loanh quanh vô ích theo các pháp môn khác. Để rồi phí bỏ cơ may đă được làm người, trong thời c̣n Chánh Pháp, mà lại không tu đúng pháp để thấy được manh mối giải thoát trước khi chết.
Nếu không tu Tứ Niệm Xứ để thấy VÔ NGĂ cho nhanh chóng, lỡ đến khi chết, gặp một cơn đau khốc liệt, làm cho SÂN HẬN (thụy miên) từ vô số đời quá khứ nổi lên, rồi đi vào ĐỌA XỨ, ví dụ bị tái sanh vào loài súc sanh, th́ biết đến chừng nào mới được tiến hóa lên làm người trở lại để tu học. Sự lâu dài đó theo Phật nói, c̣n dài hơn thời gian để cho một con rùa mù ở dưới đáy biển, 100 năm nổi lên một lần, mà trúng được vào lỗ của một tấm ván, trôi mênh mang trên mặt đại dương. Hẳn sự kiện này đă xảy ra cho chúng ta vô số lần cho nên đến bây giờ ta vẫn chưa thấy được sự giải thoát?
Ngay như ông CẤP CÔ ĐỘC, mặc dầu là người đă tạo Phước vô cùng lớn lao, không ai ở trên đời này tạo phước gần bằng ông; Nhưng đến khi lâm chung, với cơn đau khốc liệt mà ông ta đă đương đầu trong vô vọng; Nếu lúc đó không có ngài Xá lợi Phất đến hướng dẫn ông ta thực hành thiền quán Tứ Niệm Xứ, th́ ông ta đă bị rơi vào đọa xứ bởi sự bực bội không chịu nổi rồi. (xem kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc, Trung Bộ Kinh số 143: http://budsas.net/uni/u-kinh-trungbo/trung143.htm )
Tôi đă gặp một vị cao tăng, thuộc hàng giáo phẩm cao nhât, trong tông phái Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà, ngài đă gặp một cơn trọng bệnh được xe cấp cứu đưa vào nhà thương. Tôi đă hỏi ngài, sau sau khi xuất viện, ngài đă áp dụng pháp Niệm Phật như thế nào trong cơn đau đó. Ngài thú thật là Niệm Phật không nổi. Bởi trong khi đau quá, phải lo chống chọi với nó ngay trước mắt, không thể hướng tâm đến Phật A Di Đà.
Trái lại với pháp Tứ Niệm Xứ, nhất là pháp QUÁN THỌ, th́ càng đau, CẢM THỌ càng nổi rơ trước mắt, không thể không thấy, và rơ ràng là nó VÔ NGĂ, không theo ư ta. Ta không muốn đau mà nó vẫn đau, ta muốn nó giảm, nó vẫn cứ tăng. Trong trường hợp này, với một người có Trí Tuệ mạnh mẽ, chắc chắn phải giác ngộ VÔ NGĂ, chắc chắn sẽ thấy thấm thía sự khổ đau do u mê ôm thủ ngủ uẩn. Khi giác ngộ SỰ THẬT VÔ NGĂ th́ chỉ thấy sự ĐAU nhưng không thấy AI ĐAU. Đó là cách chấm dứt khổ đau bằng sự ĐỘC LẬP với cảm thọ, không đ̣i hỏi khổ đau tan biến.
Khi TRÍ TUỆ VÔ NGĂ được khai mở th́ dầu SẮC, THỌ,... vẫn c̣n hiện hữu, vẫn có khả năng thấy KHÔNG SẮC, KHÔNG THỌ,... Tức có khả năng thấy cả CÓ và KHÔNG cùng một lúc. Đó chính là ư nghĩa “SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC” của Bát Nhă. Và cái KHÔNG của VÔ NGĂ mới thật đúng là “CHƠN KHÔNG”, tức là cái KHÔNG “chơn thật”, bền vững, không phải là thứ tạm bợ, bởi không có điều kiện nào có thể chấm dứt được cái “CHƠN KHÔNG” đó. Khi áp dụng cái “CHƠN KHÔNG” đó vào sự chấm dứt khổ đau, th́ khổ đau mới thật sự TẬN DIỆT. Như vậy mới xứng đáng gọi là NIẾT BÀN với ư nghĩa hạnh phúc bất diệt.
Với những ai không hề bàn đến VÔ NGĂ, không thiết tha thực hành TỨ NIỆM XỨ mà chỉ cứ đề cao TÂM KHÔNG, TÁNH KHÔNG, bằng những luận lư của tư tưởng “Triết lư Tánh Không”, th́ cái KHÔNG của họ, chỉ là một sản phẩm của Tâm Thức (b́nh thường), không phải là một SỰ THẬT có tính chất chân thật và trường cửu. Cái KHÔNG do tư tưởng vẽ ra đó, không phải là “CHƠN KHÔNG”. Và bởi v́ là một thứ KHÔNG “mơ hồ”, cho nên họ không thể tŕnh bày một con đường rơ ràng để đi đến đó. Trái lại, với cái KHÔNG của VÔ NGĂ, v́ là một SỰ THẬT ở ngoài tâm thức (ở ngoài ngủ uẩn), nên có đường đến đó rơ ràng mà ai cũng có thể chứng nghiệm được. Đó chính là pháp tu TỨ NIỆM XỨ, nh́n thẳng vào BĂN NGĂ để khám phá VÔ NGĂ.
Nói tóm lại thấy được VÔ NGĂ là thấy được PHÁP thấy được PHẬT. Cũng ví như một người đang lạc trong hầm sâu tăm tối, lần ṃ măi vẫn không biết hướng nào để thoát ra. Nhưng khi thấy được một tia ÁNH SÁNG chiếu vào th́ biết ngay ở chố sáng đó là chỗ giải thoát (Phật) và con đường đi thẳng tới đó là con đường để giải thoát (Pháp). Người tu hành khi thấy được SỰ THẬT VÔ NGĂ th́ cũng như người ở trong hầm sâu thấy được ÁNH SÁNG vậy. Cứ nhắm VÔ NGĂ mà tiến tới là đi đúng Pháp và sẽ thấy được Phật. Kinh sách có chỗ cũng nói thêm rằng thấy DUYÊN KHỞI là thấy Pháp thấy Phật. Bởi v́ ai thấy được “CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH” th́ người đó cũng sẽ thấy VÔ NGĂ.
KẾT LUẬN
Để chấm dứt bài pháp luận này tôi xin gởi tặng Phật tử 2 đoạn kinh sau đây, một từ Nam tông, một từ Bắc tông để quí Phật tử thấy rơ Đức Thế Tôn đă xác định 2 mục tiêu nào quan trọng nhất mà người tu hành phải chứng cho được. Đối với tôi, thấy được VÔ NGĂ là thấy được PHÁP, thấy được dáng dấp của Phật (Thinh văn và Độc Giác Phật), và chứng được TƯ THÁNH ĐẾ là hoàn toàn thấy được PHẬT (Chánh Đẳng Chánh Giác).
Kinh Nam Tông: TĂNG CHI BỘ, chương 3 pháp, phẩm Chiến Sĩ:
này các Tỷ-kheo, đầy đủ ba đức tánh, Tỷ-kheo đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là kẻ bắn xa, bắn chớp nhoáng và đâm thủng được vật to lớn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bắn xa?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phàm có sắc ǵ, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả sắc, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi".
Phàm có cảm thọ ǵ, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả cảm thọ, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi".
Phàm có tưởng ǵ, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả tưởng, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi".
Phàm có các hành ǵ, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các hành, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi".
Phàm có thức ǵ, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần, tất cả các thức, vị ấy thấy như thật với chánh trí tuệ rằng: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi".
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bắn chớp nhoáng?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Đây là khổ", như thật tuệ tri: "Đây là khổ tập"; như thật tuệ tri: "Đây là khổ diệt"; như thật tuệ tri: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt"; Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo bắn như chớp nhoáng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đâm thủng vô minh uẩn to lớn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đâm thủng vật to lớn.
(Theo Tương Ưng bộ Kinh th́ thấu triệt đầy đủ Tứ Thánh Đế kể như đâm thủng Vô Minh)
Kinh Bắc Tông: ĐẠI NIẾT BÀN, phẩm 23: Sư Tử Hống Bồ Tát:
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo : “ Các ông phải quán Tứ Niệm Xứ, khéo tu trí huệ, phải tinh tấn , chớ phóng dật.
Thế nào gọi rằng quán Tứ niệm xứ? Nếu có Thầy Tỳ Kheo quan sát trong thân ḿnh chẳng thấy ngă, chẳng thấy ngă sở, quan sát ngoài thân và quan sát cả trong thân ngoài thân, đều chẳng thấy có ngă và ngă sở. Quan sát thọ, tâm và pháp cũng như vậy. Đây gọi là quan sát niệm xứ.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Nếu có Thầy Tỳ Kheo chơn thật thấy tứ đế lư : Khổ tập diệt đạo, đây gọi là Thầy Tỳ Kheo tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là tâm chẳng phóng dật? Nếu có Thầy Tỳ Kheo niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả, niệm Thiên. Đây gọi là Thầy Tỳ Kheo tâm chẳng phóng dật.