Các công tŕnh
Văn học quốc ngữ miền Nam
*
Tiết 1: Đại Cương
Ở chương trước, chúng ta biết chữ quốc ngữ h́nh thành khởi đi từ các nhà truyền giáo Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, rồi lần lượt chữ quốc ngữ được phổ biết trong giới Thiên chúa giáo, chữ quốc ngữ thời ấy là phương tiện truyền giáo. Cho đến khi Pháp đặt chân lên miền Nam, th́ chữ quốc ngữ được dùng làm phương tiện đô hộ dân Việt Nam ta.
Từ đó chữ quốc ngữ có cơ hội tiến triển mạnh mẻ, được phổ biến, truyền bá đến quảng đại quần chúng. Các nhà văn tiền bối như Trương Vĩnh Kư, Húnh Tịnh Của, Trương Minh Kư đă dịch các tác phẩm Nho giáo, soạn tự vị, in các tác phẩm văn chương Việt Nam, truyện đời xưa, nhằm mục đích truyền bá tư tưởng Khổng Mạnh, phổ biến văn chương Việt Nam và chữ quốc ngữ.
Trước hết là Báo Chí, khởi đầu là tờ Gia Định Báo ra ngày 15-4-1865, kế đó là Phan Yên Báo ra năm 1868, Nông Cổ Mín Đàm 1901... Sau đó đến thời kỳ thơ như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đ́nh Chiểu do Trương Vĩnh Kư phiên âm ra quốc ngữ năm 1880, sau đó là dịch truyện Tàu vào khoảng năm 1904, c̣n quyển tiểu thuyết được viết đầu tiên in năm 1887, là quyển Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, rồi quyển Hoàng Tố Oanh Hàm Oan của Trần Chánh Chiếu ra đời năm 1910, nó mới nhen nhúm gây thành phong trào viết tiểu thuyết sau nầy. Các giai đoạn ấy đă tạo thành trào lưu văn học quốc ngữ, nó có sắc thái và truyền thống đặc biệt mang cá tính của người miền Nam.
Chúng ta đi sâu vào chi tiết ở phần sau, tưởng cũng cần nhắc lại chữ quốc ngữ ở miền Bắc được chính thức sử dụng từ năm 1913, sau khi miền Nam đă chính thức sử dụng chữ quốc ngữ trên 20 năm và đă gần nửa thế kỷ truyền bá chữ quốc ngữ.
Tiết 2: Báo Chí
A. Gia Định Báo: Là tờ báo do nhà cầm quyền Pháp chủ trương. Số 1 ra ngày 15-4-1865, do Ernset Potteaux làm Chánh Tổng Tài. Chức vụ nầy có lẽ bao gồm Chủ Nhiệm, Chủ Bút và luôn cả Quản Lư (1).
Từ năm 1869-1872, Trương Vĩnh Kư được cử làm Chánh Tổng Tài.
Từ năm 1872, do J. Bonet làm Chánh Tổng Tài, có lẽ tờ báo đ́nh bản vào năm 1909 (2)
Tờ báo nầy trước tiên mỗi tháng phát hành một số ra vào ngày 15 mỗi tháng, khoảng năm 1870 th́ cứ mỗi tháng ra 3 số, về sau cứ mỗi tuần ra 1 số.
Mỗi số báo có 4 trang. Về nội dung, trước tiên chỉ có hai phần: Phần công vụ và phần tạp vụ.
- Phần công vụ: Dụ, nghị định, chỉ thị, thông tư, biên bản Hội Đồng Quản Hạt (3)...
- Phần Tạp vụ: Lời rao, tin tức, trả lời cho các đương đơn, án Hội Đồng xét lại ...
Đơn cử nghị định ngày 16-9-1869 của Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier, đăng trên Gia Định Báo (4) :
‘’...Kể từ ngày hôm nay, việc biên-tập tờ báo An-nam Gia Định Báo được giao cho ông Pétrus Trương-Vĩnh-Kư với tư cách Chánh-tổng-tài tờ báo nầy, ông sẽ lănh một bổng-cấp hàng năm 3.000 phật-lăng (5).
Tờ báo tiếp-tục ra hàng tuần. Nó chia làm hai phần, phần công-vụ gồm các văn-thư, quyết-định của quan Thống Soái và của nhà cầm quyền, nguyên văn bằng tiếng Pháp do Nha Nội-trị cung cấp và ông Trương Vĩnh Kư dịch ra chữ An-nam; phần tạp-vụ gồm các bài có ích cho sự học và vui thích với các bài sử-học, luân-lư, thời-sự để có thể đọc trong các trường bản xứ và làm cho dân chúng An-nam chú ư.’’
Sau đây là phần công vụ, đăng ở số 3 năm thứ 10, phát hành ngày 1-2-1874, đăng nghị định thăng trật của hai công chức như sau :
Trường Hậu-bổ Sàig̣n
Trần Nguyên Hanh làm thông ngôn hạng 3, lên hạng nh́, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Trường Khải Tường
Trương Minh Kư, nguyên làm thầy dạy giúp hạng ba, lên hạng nh́, đồng niên ăn 1.400 quan tiền.
Về phần tạp vụ, một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16-2-1870:
Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa v́ thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc.
Người bên Tàu thường kêu ḿnh là Đường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Đường nhà Thanh.
An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là v́ khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...
Người Bắc th́ kêu là Ngô, nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắc nghĩa rằng v́ bởi nó hay xưng ḿnh là Ngô nghĩa là tôi.
Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nh́n người Tàu là anh em, bằng không th́ cũng là người đồng châu với cha ḿnh, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha ḿnh. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.
C̣n kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác th́ kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...
C̣n tin tức, như mẫu tin sau đây, đăng vào Gia Định Báo số 8 năm thứ 6, phát hành ngày 8-3-1870:
... Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc-môn. Tối 12 tháng giêng nầy người ấy xuống ghe mà ngủ, c̣n vợ con th́ để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thím Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va th́ nhà cửa, tài vật đă ra tro rồi...
Chánh Tổng Tài Trương Vĩnh Kư muốn có những tin tức mới lạ, cùng khuyến khích những thông tín viên tự nguyện, để góp cho Gia Định Báo được dồi dào tin tức khắp Nam kỳ lục tỉnh, ông đă có lời rao sau đây, đăng trong số 11 năm thứ 6, phát hành ngày 8-4-1870
Lời cùng các thầy thông-ngôn, kư-lục, giáo tập vân vân đặng hay:
Nay việc làm Gia Định Báo tại Sàig̣n, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện ḿnh biết tại chỗ, tại xứ ḿnh ở, như:
Ăn cướp, ăn trộm.
Bệnh-hoạn, tai-nạn.
Sự rủi-ro, hùm tha, sấu bắt.
Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào.
Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân
Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt-tŕnh cho người ta biết, viết rồi th́ phải đề mà gửi về cho Gia Định Báo Chánh tổng-tài ở Chợ-quán.
Trong tờ báo, như đă nói có phần công vụ và tạp vụ, có những bài không ghi rơ xuất xứ. Trương Vĩnh Kư giải thích phần nầy:
Những kẻ coi nhựt-tŕnh phải có ư cũng hiểu điều nầy là:
Thường những chuyện Tạp-vụ các nơi trong đất Nam-kỳ gửi về cho kẻ coi Gia-Định Báo, th́ có kẻ coi lại, có trắc th́ sửa lại cho xuôi cho dễ nghe v́ các thầy gửi cho nhựt-tŕnh th́ cũng ưng chịu làm vậy; lại cũng để tên các thầy ấy kư lấy v́ là của các thầy ấy viết và gửi. C̣n như phần công-vụ, các bài nghị-luận quan lớn Nguyên-Soái cùng những khúc chẳng có tên ai đứng là kẻ coi nhựt-tŕnh làm. Mà những khoản thẩm xét án các quan tham-biện hay là trả lời cho kẻ qú đơn, việc nọ việc kia th́ của Hội-đồng quan Thống-soái Nam-kỳ luật-vụ làm ra sẵn rồi mà gửi đem vô Gia-Định Báo, có tên người đứng kư vô đó, th́ hể gửi thế nào th́ in ra thế ấy mà thôi. Cho nên khi có điều ǵ không được cho rơ mấy th́ xin kẻ coi nhựt-tŕnh chớ trách-cứ kẻ coi việc ấy ...
Cũng có phần văn chương như bài sau đây, đăng trong số 39 năm thứ 19, ngày 13-10-1883:
Nồi Đất Với Nồi Đồng
Nồi đồng tính việc đi đàng,
Rủ ren nồi đất cùng trang đang th́.
Kiếu rằng: Chẳng tiện nổi đi,
Ở an xó bếp, không ly góc ḷ.
V́ e sẩy bước rủi ro,
Rách lành chịu vậy, đói no vui vầy.
Rằng da đấy cứng hơn đây,
Phận kia dễ tính, thân nầy khó toan.
Đáp rằng: rủi gặp dọc đàng,
‘’ Vật chi cứng cát cảng ngang không v́.
Để ta qua bửa lo chi,
Bên th́ vật ấy bên th́ nhà ngươi.
Tai nghe nói ngọt tin lời,
Ch́u ḷng bạn hữu bèn dời chân đi.
Bước khua lộp cộp dị kỳ !
Xa nhau e sợ, gần th́ đụng nhau.
Hai nồi đi chẳng đặng mau,
Chưa đầy trăm bước đụng nhau ră rời.
Hởi ôi Nồi đất rồi đời,
Khôn lời năn nỉ, khôn lời thở than.
Nơi nghèo khổ, chỗ giàu sang,
Ở đời giao kết kẻ ngang vai ḿnh.
Diễn quốc âm Trương Minh Kư
B. Phan Yên Báo: Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng Phan Yên Báo được xuất bản năm 1868, do ông Diệp Văn Cương (6) chủ trương biên tập, về nội dung như Gia Định Báo lúc đầu, tờ báo nầy về sau bị đóng cửa, v́ có những bài báo có tánh cách chánh trị, do vậy mà tờ Phan Yên Báo ngày nay không c̣n, cũng không rơ nó là nguyệt san hay tuần san.
Có người cho rằng Phan Yên hay Phiên An Trấn là tên cũ của đất Gia Định và Phan Yên Báo là tờ báo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trường Tộ làm chủ nhiệm.
Qua tiểu sử của Diệp Văn Cương, tờ Phan Yên Báo của ông không thể có vào những năm đầu Pháp mới đô hộ miền Nam, ít ra báo của ông cũng chỉ có từ 1880 hay trễ hơn, c̣n Phan Yên Báo của Nguyễn Trường Tộ nếu có, chắc không xuất bản ở miền Nam, v́ nó là tờ báo chữ Hán.
C. Nhựt Tŕnh Nam Kỳ: Là tuần báo, xuất bản số đầu vào năm 1883
D. Thông Loại Khóa Tŕnh: Nó giống như Gia Định Báo ở chỗ có hàng chữ Hán Thông Loại Khóa Tŕnh ở trên: 通 類 課 程 bên dưới là hàng chữ Miscellanées, số 1 và 2 không ghi tháng phát hành, số 3 có ghi Juillet 1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) năm 1888. Số cuối cùng là số 18 ra tháng 10-1888. Khổ 16cm x 24cm, từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang.
Từ số đầu cho đến số 5, các bài đều không có ghi tên tác giả, nhưng theo bài Bảo (7), những bài ấy đều của Trương Vĩnh Kư viết, kể từ số 6 mới có thêm các bài văn vần, gọi là diễn Nôm của Trương Minh Kư làm để giải nghĩa các câu chữ Nho, có lẽ để cho người ta dễ học thuộc ḷng, sau đó mới có bài của những người khác.
Về nội dung gồm có :
Sau đây là các bài trích dẫn:
十 分 惺 惺 使 五 分 留 取 五 分 與 兒 孫
Thập phần tinh tinh sử ngũ phần, lưu thủ ngũ phần giữ nhi tôn
十 分 惺 惺 都 使 盡 後 代 兒 孫 不 如 人
Thập phần tinh tinh đô sử tận, hậu đại nhi tôn bất như nhân
Nghĩa đen:
Mười phần rành rành dùng lấy năm phần, Để lại lấy năm phần cho con cháu;
Mười phần rành rành đều ḿnh dùng hết, Đời sau con cháu chẳng như người ta.
Nghĩa là:
Như ḿnh có đặng giàu sang rơ-ràng cả mười phần th́ hăy hưởng lấy năm phần mà thôi, để dành lại năm phần sau con cháu hưởng với: v́ nếu như ḿnh được mười phần ḿnh hưởng hết đi cả mười, th́ đời sau con cháu ḿnh c̣n ǵ mà hưởng, té ra sa sút chẳng bằng người ta.
Trương-Minh-Kư diễn ra ca Nôm rằng:
Mười phần rỡ rỡ lấy năm xài, Để lại năm phần trẻ gái trai,
Rỡ rỡ mười phần đều dùng hết, Đời sau con cháu dám b́ ai.
( Monsieur,(Bongdur moxơ) = chào ông
Bonjour {Madame,( ----‘’------ madăm) = chào bà
(Mademoiselle,(--‘’--madơmoaxel) = chào cô
Comment cela va-t-il? (C̣măng xa va ti) = mạnh-khỏe thế nào ?
Cela va bien (xa va biêng) = mạnh khỏe.
Où allez-vous ? (u alê vú) = anh đi đâu ?
Je vais me promener (dờ ve mơ promơnê) = tôi di dạo
c) Tam Cang Là Những Cang Nào ? (10)
君 為 臣 綱 quân vi thần cang (vua là giềng tôi)
父 為 子 綱 phụ vi tử cang (cha là giềng con)
夫 為 妻 綱 phu vi thê cang (chồng là giềng vợ)
Chỉ vua với tôi ở cùng nhau phải cho có đạo, cha với con ở cùng nhau phải cho có t́nh, chồng với vợ ở cùng nhau phải cho có nghĩa là thuận ḥa với nhau.
Ấy là ba giềng cả.
Giềng là mối dây b́a giềng lưới, có nó mới thành tấm lưới, mới chắc cho lưới.
Về Tam Cang (11)
Ở dưới đời, người ta không phép sinh ra mà ở một ḿnh cho đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh con đẻ cháu ra nối ḍng; thành nên gia-thất; nhiều ra, ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có xứ, có nước, có ra như vậy th́ phải có tôn-ti, đẳng-cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền mà cai-trị, ǵn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà vững nước.
V́ vậy phải có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau; mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới ḥa, th́ mới bảo hộ nhau được. Lớn theo phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ phận th́ bằng-an.
Vua cũng có phép buộc phải ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc phải ở với vua quan thể nào cho phải đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với con-cái cách nào; con-cái có phép dạy phải ở làm sao với cha mẹ cho trọn niềm; c̣n chồng với vợ cũng có ngăi phải giữ với nhau cho trọn nhân trọn ngăi nữa.
Ấy là ba mối cả, là chánh giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững bền.
d) Hát Nhà Tṛ (12)
Hát nhà tṛ là tục ngoài Bắc vô tới Nghệ-An, Hà-Tỉnh chí sông Gianh.
Tại kinh thành Huế cũng có mà là đào ngoài Bắc rước vô dùng tại triều.
Ngoài Bắc hể khi có đám-tiệc, hội-hữu, hôn-tế, ḱ-yên, chạp-miễu, th́ thường có hát nhà tṛ. Tùy theo ư chủ muốn, có khi kêu một đào một kép, có khi hai, có khi năm bảy hay là nhiều hơn mặc ư ḿnh. Trải chiếu dưới đất, đào ra ngồi hát đó, kép cầm đờn đáy gảy ngồi lại một bên.
Thường đào là con-gái có xuân-sắc, chuyên tập nghề xướng-ca, ngâm-nga, múa hát,bắt-bộ v.v. tục kêu là cô-đào (đàu B). Tay cầm quạt tay cầm sanh nhịp, miệng hát nhiều cung bậc giọng thấp cao ngân-nga hay và êm tai lắm.
Hát th́ hát những là Ca-trù, hoặc giậm Túy-kiều, câu hát rời, Tần cung-oán, Chinh-phụ-ngâm, thơ phú hoặc kể truyện. Có người đánh trống nhỏ cầm chầu hoặc là chủ đám, hoặc là người chủ nhường mời. Hát cũng có khi đứng khi ngồi, khi múa tay, bắt bộ. Lại có khi bắt đào qúnh tương (13) rượu cho khách, là bắt tay bưng chén rượu, chơn bước khoan- thai, miệng hát câu chi cho hay đẹp t́nh ưa ư khuyên mời khách uống, đem lại dâng đưa vô tới miệng.
Cung giọng nhà-tṛ thường là những cung giọng nầy
e) Ca kiêng giống độc (14)
Vật ấy đừng dùng kẻo lệ âu.
g) Ba bậc bộ hành ở nhà quán (15)
h) Lư-Thường-Kiệt 李 常 傑 (16)
Lư-thường-Kiệt người tỉnh Hà-Nội, huyện Vĩnh-Thuận làm quan tướng nhà Lư. Thuở ấy bền Tàu nhà Tống nghe lời Vương-an-Thạch mà khinh dị Annam, vua Lư-nhơn-Tông mới sai Lư-thường-Kiệt, với Tông đảng đem 10 vạn binh qua đánh Tống, lấy đất Châu Khâm, châu Liêm giết Thương-thủ-Tiết, lấy châu Ưng, giết châu Nham và hơn 10 vạn con người ta.
Sau Tống sai binh tướng qua đánh Annam, khi đóng binh tại bờ sông Như-nguyệt, th́ Lư-thường-Kiệt biết bụng dân hay tin tưởng thần thánh, thấy Quách-qú với Triệu-tiết đem binh Tàu hơn 87 vạn qua, nao sợ ngă ḷng, th́ dụng mưu mà làm cho vững ḷng quân. Vậy mới cho người ra sau bàn-thờ miễu ông Tương-tướng giả thần ứng phán, ngâm như lời sấm bốn câu như sau đây.
Nam quốc sơn-hà nam đế cư,
Tiệt nhiên phân-định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Binh lính nghe liền vững bụng, bèn đánh quân nhà Tống phải thua. Ông Lư-thường-Kiệt là người nhiều mưu-lược, có tài tướng-soái, làm tôi 3 đời vua, đánh Tống thua, dẹp an Chiêm-thành, huân-nghiệp công-trận lớn lắm. Được tặng là Việt quốc công.
Đời nhà Nguyễn, Minh Mạng năm thứ 4 cho tế theo trong miễu Lịch-đại đế vương.
Tóm lại, Thông Loại Khóa Tŕnh được coi như nguyệt san văn học, nội dung gồm có những bài sao lục, một số bài khảo cứu và sáng tác; phần lớn dùng văn vần và không có h́nh ảnh trang trí.
E. Nông Cổ Mín Đàm: Là tuần báo phát hành vào ngày thứ Năm, có 8 trang, khổ 27cm x 20cm do Canavaggio sáng lập. Số 1 ra ngày 1-8-1901, những người cộng tác với Canavaggio làm chủ bút tờ báo nầy lần lượt gồm có: Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Viên Kiều, Nguyễn Đồng Trụ, Lê Văn Trung, ngoài số những người chủ bút vừa kể, c̣n có sự cộng tác của các nhà văn danh tiếng như Nguyễn An Khương, Thượng Tân Thị Phan Quốc Quang, Lê Quang Chiểu, Giáo Sỏi, Đỗ Thanh Phong.
Nội dung báo gồm có luận thuyết, tin tức, lời rao, dịch chuyện Tàu, diễn Nôm các bản cổ văn, thi ca, nhàn đàm và quảng cáo.
Sau đây là một số bài trích dẫn:
Băo lụt phía Tây-Nam (17)
Trong một năm hai lần băo, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại thay cho dân khổ, 16 tháng ba băo nơi Đông Nam (18) dân Tây-Nam b́nh tịnh, đến đêm 26 tháng chín băo nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc Trăng, Đại Ngăi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Đốc và Hà Tiên, cây ngă nhà xiêu, ghe ch́m người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương. Chẳng phải băo mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc h́nh-hài làm mọi cho người, đói ḷng, dạ không an con vợ. Thương ôi Đă biết rằng: Trời c̣n có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba mươi năm dân luống thảnh-thơi, quen thời-tiết phong điều vơ-thuận. Xăy một phút trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên-tri cũng khó thở-than, v́ dân-vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên thành phật cùng địa-phủ thiên-đàng, th́ nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go; bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng lâu th́ sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện bao đồng. Ôi thôi ! Hể trời khiến tai-nàn người chịu, xót t́nh thương nên tỏ một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đă rơ trước tam-phân đảnh túc; bởi Chiếu-liệt đốc-thành kỉnh-sĩ, nên người đành tận-tụy cúc-cung. V́ một người, chịu nhọc một ḿnh; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám căi. Thương trăm họ nên phân trái-phải, hết sức ḿnh cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi !
Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời hết hết tưởng tưởng chơi chơi th́ th́ phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho bổn quán, như trúng th́ xin phụng lại một tháng nhựt-tŕnh xem chơi.
Chủ bút
Đọc đoạn văn vừa trích, chúng ta thấy chủ bút cũng như những người viết khác, c̣n chịu ảnh hưởng của cổ văn rất nhiều, nhất là cách hành văn biền ngẫu. Hai bài trích kế tiếp sau đây, không dụng lối biền ngẫu, họ viết y như câu nói, đó là nét đặc trưng của văn chương miền Nam.
Trường Tabert (19)
Mỗi năm hể sau ít ngày ăn lễ sanh-nhật, th́ trường học Taberd phát phần thưởng học tṛ rồi đặng băi trường. Khi phát phần thưởng mời cha mẹ học tṛ đến xem hát cho vui. Trường dạy học Taberd, thiệt lập nhiều cach vui cho người có con học vào trường ấy và dục ḷng trẻ nhỏ vui và siêng học, học đạo đức, học lễ nghi, học văn chương, học vẽ lại thêm học hát xướng. Đến lúc làm điều vui, cũng c̣n kiếm điều cho có ích, điều dạy làm lành, răn đời lấy nhơn-nghĩa. Như là bày tuồng hát chơi mà có ư khuyên người làm phải, dạy trẻ ḷng lành, xem đáng cám ơn người bày biện, ḷng tốt thương người, tập rèn cho con em phải cách.
Lời Rao
Thường thường hể làm cha mẹ ai ai đều thương con chẳng cùng. Bởi con tôi quá lắm, mới lấy lẽ phải mà răn. Nay vợ chồng tôi là Nguyễn-Hữu-Phước làm tri huyện tại hạt G̣ Công, rao cho chư vị đồng bang và người khách đặng rơ: Xin chớ có cho tên Nguyễn Hữu Vạng vay tiền mượn bạc chi. Nó là con của vợ chồng tôi mà nó không nghe lời dạy-dỗ , cứ theo hoang-đàng phóng-tứ. Nếu ai có cho mượn, mất tiền phải chịu lấy, chớ vợ chồng tôi không biết đến.
Tự hậu không ai được phép nói động đến vợ chồng tôi về tên Vạng thiếu nợ.
Tri huyện Nguyễn-Hữu-Phước
Sau đây là mẫu tin đăng trên Nông Cổ Mín Đàm năm 1915, chúng ta thấy những người viết văn lúc đó vẫn c̣n chịu ảnh hưởng cách hành văn biền ngẫu, những người viết tin, lồng vào đó phần trào phúng, ngày nay các thông tín viên vẫn c̣n dùng :
Rồi trái oan
Một phu-nhân ở đường d’ Espagne (20) ngó qua chùa chà chưa biết đạo xướng tùy có chi cay đắng hay là nghĩ trần ai ngán sự đời, tạm nha phiến một chung trộn với dấm mà liều má phấn. Vào nhà thương thôi rồi nợ phong trần trả sạch c̣n cái giây oan trái buộc ràng. Bởi v́ không rơ cơ quang, quan mới lập đàng tra vấn. Vấn cho rơ v́ sao mà tự tận, có phải v́ t́nh trường mà giận hờn ghen. Vấn cho ra coi ai ép uổng phận nhỏ nhen, làm đến đổi cánh sen chôn lấp.
Tuy nhiên cũng có người hành văn không dụng lối biền ngẫu nên vừa ngắn mà vẫn giữ tánh chất trào lộng như đoạn văn sau đây :
Lê-văn-Búp ở Thủ-Dầu-Một đi xách nước giếng hồi nào không biết, đến chừng người nhà hay tri hô lên th́ thấy anh Lê-văn-Búp trồng chuối ngược. Bộ vó chổng khu xách nước nên mới té dọng đầu xuống giếng.
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương dịch nhiều truyện Tàu đăng trên Nông Cổ Mín Đàm và bản dịch Tam Quốc Chí đăng trong báo nầy, kư kên Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn, người dịch là Lương Khắc Ninh.
Sau đây trích một bài dịch Hán văn của Nguyễn Chánh Sắt :
Chuyện mộ Tào Tháo
Phía ngoài thành Hứa-Đô có một cái sông nước chảy rất mạnh, hai bên th́ bờ vực hẳm sâu. Mùa hè trời nóng nực, có một người kia xuống tắm, giây phút nổi lên như bị đao búa chém đứt ra từng khúc. Sau có một người cũng bị như vậy, thiên-hạ thất-kinh lấy làm lạ. Quan phủ sở tại thấy vậy, bèn bắt nhiều dân khiêng đất đốn cây chận ngọn nước sông lại, lúc nước cạn rồi th́ thấy dưới sông có cái hang sâu, trong ấy có đặt những xa máy tinh những gươm bén lắm. Phá máy lấy gươm lên, moi riết vào thấy có cái bia nhỏ đề chữ giống điệu chữ đời Hớn, xem kỷ ra mới biết là mộ của Tào Mạnh Đức. Quan phủ bèn dạy phá ḥm ra, lấy xương đem chôn nơi khác. C̣n những ngọc ngà châu báu liệm trong ḥm, th́ lấy hết mà bỏ vào kho.
Trong sách có nói Tào Tháo có bảy mươi hai cái mă nghi, hay đâu ngoài bảy mươi hai cái lại c̣n một cái nầy nữa. Ấy vậy th́ gian trá như Tào Tháo, đến thác cũng c̣n gian trá. Song đă ngoài ngàn năm mà một nắm xương tàn c̣n chẳng giữ đặng thay, nghĩ lại mà coi, th́ gian trá cho lắm lại có ích ǵ.
Rút trong Liêu Trai Chí Dị dịch ra
Tân Châu, Nguyễn Chánh Sắt
Và sau đây là phần Nhàn Đàm đăng vào năm 1908 (không rơ số mấy, có ảnh một mẫu báo)
Con Voi Với Con Trâu
(Tranh công)
Con trâu ngày kia đi ngao du ngoài rừng, xăy gặp con voi đứng lại mà đàm luận việc công cán với nhau, th́ con Voi thấy con Trâu có hơi mệt, liền hỏi sức lực mầy làm dường bao mà coi bộ mệt lắm vậy, th́ con trâu trả lời rằng:
Tôi làm vầy chớ công cán tôi cao dày lắm, biết mấy đời vương, giúp trong thiên hạ đà lắm thuở, tuy tôi tuổi tác nhỏ nhen chớ trong ḷng sẵn có ba lá sách, nhưng vậy cũng biết đặng đường nhơn nghĩa mà cư xử trong và bề ngoài.
Con voi nói lại rằng: Nè c̣n công cán tao cao dày lắm, nhơn v́ trước tao giúp cho vua Thuấn đă cày nên ruộng, bởi vậy sau đây người ta tặng kêu tao là ông-tượng, nên tao biết tao phải lớn hơn hết.
Con trâu trả lời: Phải ông thiệt là lớn hơn hết, lớn là lớn cái vóc và khoe ḿnh nên người ta gọi là ông tượng, và h́nh thù th́ lớn mà tánh nết ăn nói nhỏ nhen lắm, nên người ta sợ bụng ông không chừng, thiệt tôi coi đi xét lại, nhằm trước xem sau có một ḿnh ông bụng lớn và bao tử cũng lớn chứa phẩn nhiều hơn hết, mà lại xông lớn đống, hể ai đi có gặp nói phẩn của ông-tượng là vậy đó.
Nguyễn Quang Trường
Tự: Cửu Viễn
Cũng ở trang 6 tờ báo nầy có đăng những quảng cáo như sau :
Nhà Đóng Sách J. Viết-Lộc & Cie
ở đường d’Ormay số 61, Sàig̣n
Lê-Văn-Ngàn, kế vị
Kính cùng chư quư vị đặng rơ, kể từ ngày 15 tháng sáu langsa, chúng tôi mới làm hùn thêm đặng lo tấn tới và mở mang cuộc đóng sách và cuộc buôn bán thuở nay của mấy thầy Viết-Lộc và Công-ty.
Vậy xin trong lục châu cùng châu thành Saigon Chợlớn tưởng t́nh anh em chúng tôi trước sau cũng vậy mà giúp sức cho người nam ta cho tấn tới theo đường thương măi.
Luôn diệp nầy chúng tôi xin trong chư quư vị ai c̣n thiếu bạc hay là có muốn mua cái chi th́ x́n từ ngày nay đến sau phải gửi cho thầy Lê-văn-Ngàn.
C̣n nhà J. Viết-Lộc & Cie có thiếu của ai th́ hạn trong một tháng phải đem tờ giấy chi đến tại nhà nầy mà tính. Bằng quá hạn nầy rồi th́ chúng tôi chẳng biết tới nữa.
Saigon, le 16 Juin 1908
Phần quảng cáo đa số là của người ngoại quốc, đủ chứng tỏ thuở ấy người Pháp và Ấn chiếm hầu hết việc thương mại ở Sàig̣n. Đây là một mẫu quảng cáo hàng :
Tiệm Bán Hàng Hoá
Ông Courtinat và Công-Ty
ở đường Catinat, Saigon
Số 96-98-100-102-104-106-108
Có bán: lụa, nhun, tố, nỉ, hàng tây, đủ thứ, đủ màu;
Tủ sắt, giường sắt có ruột gà, bàn rữa mặt lót mặt đá cẩm thạch, tủ cây Hongkong, xe máy từ 55 đồng;
Xa bong hiệu Mignon mỗi hộp 100 miếng giá gửi đến chổ 1$85 và xa bong thơm, dầu thơm đủ thứ;
Ghế Thonet mặt cây tốt lắm;
Dù lục soạn hay là dù vải đủ thứ;
Giày, vớ, khăn, đồng hồ vàng, bạc và nickel, kiếng soi lớn nhỏ đủ thứ, cùng đồ hành lư;
Máy nói hiệu Pathé;
Pháo bông, cùng đồ cho con nít chơi đủ thứ;
Hột xoàn lớn nhỏ tốt nhứt hạng;
Có bán xe hơi hiệu Berliet, chạy từ Saigon xuống Vũng tàu 28 phút, cũng có lảnh sữa xe hơi.
Tại nhà nầy chẳng thiếu món chi mà lại giá rẻ.
Tóm lại Nông Cổ Mín Đàm là một tuần báo khổ lớn, nội dung gồm đủ các phần tuy có 8 chỉ trang, nhưng phần văn chương chiếm hết tờ báo. Nông Cổ Mín Đàm ra đời trong thời buổi sơ khai của nền báo chí nước ta, lúc chữ quốc ngữ cũng c̣n ít người biết đọc. Cho nên mặc dù nó đă đ́nh bản chưa đầy một thế kỷ, mà ít có người được biết đến tờ báo nầy.
Tờ Nông Cổ Mín Đàm ra mắt, mặc dù sau Gia Định báo, Thông Loại Khóa Tŕnh, nhưng hiện t́nh báo chí thuở ấy chỉ có Tờ Nông Cổ Mín Đàm mà thôi, măi cho đến năm 1907 mới có tờ Lục Tỉnh Tân Văn.
Dù sao th́ tờ Nông Cổ Mín Đàm cũng có đủ yếu tố là một tờ báo, nó gồm đủ các phần như báo chí ngày nay.
Về chữ Quốc ngữ, chúng ta để ư sẽ thấy rằng chữ thuở ấy chẳng có mấy sai khác như hiện nay, trừ một số lỗi chánh tả. Lối hành văn dài thậm thượt, nhận xét nầy cho thấy hành văn thuở đó chưa được chú trọng, quy cũ như hiện nay.
Tờ Nông Cổ Mín Đàm không những phổ biến tư tưởng Đông phương, mà c̣n phổ biến tư tưởng học thuật Tây phương, đi theo đường lối Trương Vĩnh Kư đă làm từ trước.
F.- Nhật Báo Tỉnh : Cũng là tuần báo, phát hành vào ngày Thứ Năm hàng tuần, từ năm 1905 đến 1912.
G.- Lục Tỉnh Tân Văn : Năm 1907 H.F. Schneider lập ra tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, phát hành hàng tuần, có một phần nhỏ về công báo. Năm 1910, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút, đến năm 1919 Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn, là một ấn bản của Lục Tỉnh Tân Văn, phát hành cho miền Trung và Bắc.
Về sau Lục Tỉnh Tân Văn nhượng lại cho Nguyễn Văn Của làm chủ nhiệm và do Lê Hoằng Mưu làm chủ bút.
Bước sang thập niên 20 c̣n có những tờ báo như :
H.- Nữ Giới Chung : Do Lê Đức làm Chủ nhiệm và Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Đ́nh Chiểu làm Chủ Bút.
Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Khuê, sanh ngày 24 tháng Chạp, năm Quư Hợi (1864), con gái thứ tư của cụ Đồ Chiểu. Năm 24 tuổi bà nhận lời kết hôn với ông phó Tổng Nguyễn Công Tính ở Mỹ Tho. Bà sanh được một người con gái đặt tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái bà lên ba th́ chồng bà tạ thế. Bà ở vậy nuôi con, không hề tái giá. Khi con khôn lớn bà gả con cho Mai Văn Ngọc cũng người Mỹ Tho. Nguyễn Thị Vinh sinh được một cô con gái là Mai Kim Ba, nhưng sau khi sinh con được ba ngày th́ Nguyễn Thị Vinh bị bệnh chết, và bà Sương Nguyệt Anh phải nuôi cháu ngoại c̣n măng sửa. Mai Kim Ba sau này có bút danh là Mai Huỳnh Hoa, là vợ của nhà cách mạng Phan Văn Hùm. Năm 1918 bà Sương Nguyệt Anh được ông Henri Blaquière (tên Việt Nam là Lê Đức) mời làm chủ bút tờ Nữ Giới Chung, nhưng tờ báo chỉ ra được mấy tháng th́ đ́nh bản. Bà Sương Nguyệt Anh mất ngày 12 tháng 12 năm Canh Thân, tức là ngày 20 tháng 1, năm 1921, thọ 58 tuổi. "Ngày nay du khách đi qua làng Mỹ Nhơn tỉnh Kiến Ḥa, có thể nh́n thấy bên đường, gần chợ Ba Mỹ, một nấm mộ dười lũy tre xanh. . . . Đó là nơi yên nghỉ cuối cùng của nữ thi hào Sương Nguyệt Anh." (Huỳnh Minh, Kiến Ḥa Xưa, tr. 189) .
“Nguyệt Anh là bút danh khi bà sáng tác thi văn. Khi làm báo bà thêm chữ Sương vào để chỉ người góa phụ có bút hiệu Nguyệt Anh, lấy từ câu thơ: "Điệu thương xuân khóc ả sương khuê." Khuê là tên thật của bà (Nguyễn Ngọc Khuê). Câu thơ có nghĩa điệu bi thương của người phụ nữ c̣n xuân đă phải góa chồng và quyết đóng cửa pḥng khuê ở vậy nuôi con.
NỮ GIỚI CHUNG là tờ báo đầu tiên dành cho những vấn đề của nữ giới ở Việt Nam, cũng là tờ báo đầu tiên do một người đàn bà Việt Nam làm chủ bút, và người đó là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Số đầu tiên ra ngày 1, tháng 2, năm 1918 (50 năm sau Gia Định Báo do Petrus Kư làm chủ bút). Mỗi tuần xuất bản ngày Thứ Sáu, gồm các mục như Xă Thuyết, Học Nghề, Gia Chánh, Văn Uyển, và Tạp Trở. Ṭa soạn đặt tại số 13 đường Taberd, Sàigon. Trong số mở đầu bà chủ bút có nói rơ mục đích của tờ báo là truyền bá chữ Quốc Ngữ, nâng cao luân lư, dạy cách sống hằng ngày, chú trọng đến thương mại và tiểu công nghệ, tạo sự tiếp xúc giữa những con người với nhau. . .
Tuần báo Nữ Giới Chung chỉ sống được có 6 tháng rồi đ́nh bản, số cuối cùng ra ngày 19 tháng 7, năm 1918. Tuy không sống lâu nhưng nó cũng đánh dấu sự thức tỉnh của một số người về quyền sống của phụ nữ, của con người, của văn minh khoa học. Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc đă thể hiện trong mục đích của tờ báo. Giá trị và vai tṛ của người phụ nữ Việt Nam được lưu ư nâng cao. Ba năm sau đó bà Sương Nguyệt Anh tạ thế. Tờ báo đă chết, người chủ bút đă ra đi, nhưng bà đă để lại cho thế hệ sau một Bắt Đầu vô cùng tốt đẹp.
Năm 1929, xuất hiện ở Miền Nam tờ Phụ Nữ Tân Văn cũng dành riêng cho những vấn đề của phụ nữ như tờ Nữ Giới Chung hồi thập niên trước. Chương tŕnh bốn điểm của Phụ Nữ Tân Văn cũng không khác bao nhiêu chương tŕnh của Nữ Giới Chung hồi 11 năm trước. Và rồi sang thập niên 1930 bước đầu của bà Sương Nguyệt Anh đă dẫn đến những thành quả tốt đẹp hơn. Nhiều người đă nối gót theo bà. Năm 1930 tờ Phụ Nữ Thời Đàm ra đời ở Hà Nội, và năm 1932 ở Huế ra đời tờ Phụ Nữ Tân Tiến. Song song với các buổi hội thảo, các bài báo đăng trên báo chí phụ nữ, nhất là ở Miền Nam, bắt đầu có những hội đoàn hoạt động văn hóa đáng kể xuất hiện trong hướng chung đă nói ở trên. Trường nữ trung học Gia Long (hồi đó c̣n mang tên Collège des Jeunes Filles ) lúc bấy giờ đă có nhiều học sinh tốt nghiệp, và vào tháng 8 năm 1933, hội Ái Hữu các nữ sinh trường Collège des Jeunes Filles được ra đời với bà Henry Cordier làm hội trưởng danh dự, bà Phạm Văn Gia làm hội trưởng, bà Nguyễn Thị Giáp, phó hội trưởng, và cô Nguyễn Thị Kiêm, Tổng Thơ Kư. Đây là lần đầu tiên có hội ái hữu nữ sinh Miền Nam, và đó là hội Ái Hữu Cựu Nữ Sinh Gia Long với tên cũ là Collège des Jeunes Filles. Mấy tháng sau đó (tháng 11, năm 1933) viện Nữ Lưu Văn Học Hội (l'Institut de Culture Feminine) ra đời ở Sàigon. Mục đích chính của viện Nữ Lưu là (1) nâng cao tŕnh độ văn hóa của nữ giới, (2) cứu giúp và giáo dục thành phần nghèo khổ và thất học, và (3) giao tiếp với phụ nữ trên thế giới. . . . Con đường mà nữ sĩ Sương Nguyệt Anh bắt đầu hồi mười mấy năm trước, giờ đây được mở rộng thêm cho các thế hệ mai sau.” (Theo Nguyễn Thanh Liêm)
Là một người thông Nho, giỏi thơ văn, bà đă làm nhiêu bài bát cú để vịnh cảnh và những bài thơ họa vận với bạn bè, trong đó có những bài vịnh như: Vịnh bạch mai, Tặng sư cô, Hội Minh Lương, Thay lời vợ thầy thuốc, Đoan ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự, Tiễn biệt ông Trần Khải Sơ, Họa bài ông Hồ Bá Xuyên hay chánh bái Liễu, Họa bài ông Phủ Học, Họa bài thầy Bảy Nguyên. Tương truy ền bà có dịch quyển tiểu thuyết Trung Hoa Yên Sơn ngoại sử sang thể Lục bát, nhưng nay đă tuyệt bản.
Là người góa bụa c̣n trẻ, giỏi văn chương nên nhiều ông muốn gá nghĩa cùng bà, họ đă dùng thi văn để bày tỏ, như bài tứ tuyệt của ông Bảy Nguyệt ở Mỏ Cày gửi cho bà:
Ai về nhắn với Nguyệt Anh cô
Chẳng biết ḷng cô nghĩ thế mô?
Không phải văi chùa toan đóng cửa
Đây ḷng gấm ghé bắc cầu Ô
Họa thơ ông Bảy Nguyệt
Chẳng phải Tiên cô, cũng đạo cô
Cuộc đời dâu bể biết là mô?
Lọng sườn dẫu rách c̣n kêu lọng
Ô bịt ṿng vàng cũng tiếng ô
Để dứt khoát bà họa thêm bài nữa:
Phải thời cô quả chịu thời cô
Chẳng biết tuồng đời tính thế mô?
Ḍm thấy bụi trần toan đóng cửa
Ngọc lành chi để thẹn danh ô
Họa thơ ông Phủ Học
Bể ái sóng ân c̣n lắm lúc,
Mây ngàn hạc nội biết là nơi.
Một dây oan trái vay rồi trả,
Mấy cuộc tang thương dễ đổi dời.
Họa thơ ông Bái Liễu ở Mỹ Tho
Ngọc ánh chi nài son phấn đượm,
Vàng ṛng há sợ mất màu phai.
Ba giềng trước đă se tơ vắn,
Bốn đức nay tua nối tiếng dài.
Dẫu khiến duyên này ra đến thế,
Trăng thu dẫu xế rạng non đoài.
Tiễn biệt ông Trần Khải Sơ (từ Bến Tre đổi về Sa Đéc)
Phong cảnh mặc dầu chia đất khác,
Nắng mưa đâu cũng đội trời chung.
Quê người tạm gởi nhành dương liễu,
Đường hoạn xin tṛn phận kiếm cung.
Vịnh Bạch Mai
Non linh đất phước trổ hoa thần,
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân.
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng,
Sương sa bóng nguyệt ánh màu ngân.
Mây lành gió tạnh nương hơi nhánh,
Vóc ngọc ḿnh băng bặt khói trần.
Sắc nước hương trời non cảm mến,
Non linh đất phước trổ hoa thần.
Hội Minh Lương
Nh́n thu may gặp hội minh lương,
Thiên hạ ngày nay trí mở mang.
Tấc đất ngọn rau tràn dưới mắt,
Đai cơm bầu rượu chật ven đường.
Vui long thánh đế nơi xe ngựa,
Xót dạ thần dân chốn lửa than.
Nước mắt cơ cùng trời đất biết,
Biển dâu một cuộc thấy mà thương.
Thế giới đại chiến thứ nhất xảy ra, nhiều thanh niên Việt bị thực dân Pháp bắt đi lính, đưa sang Pháp tham gia chiến trận, đánh với quân đội Đức, bà Sương Nguyệt Anh cảm tác nỗi ḷng của người chinh phụ, được em bà, ông Nguyễn Đ́nh Chiêm diễn âm quốc ngữ:
Cỏ rạp sân thềm liễu rũ hoa,
Chàng đi bao thuở lại quê nhà.
Nửa đêm trăng xế ḷng ngao ngán,
Chiếc gối quyên gào lụy nhỏ sa.
Ải bắc mây giăng che bóng nhạn,
Vườn xuân nắng tạc ủ mày nga.
Nhớ nhau mấy lúc chiêm bao thấy,
Ngh́n dặm lang quân biết chăng là?
Thay lời vợ Thầy thuốc bà làm bài văn tế người chồng. Cái đặc sắc của bài văn là tên các vị thuốc được sử dụng rất tài t́nh.
Nhớ quân tử xưa
Tướng mạo thung dung
Tánh t́nh hậu phát
Thong thả con đường thanh đại
Bạn tần giao mấy gă đăng tâm
Tánh năng suy nghiệp huỳnh kỳ
Tài quán chúng nhiều người la bặc cả
Thương thay
Trướng hiệp quản rồi ră a giao tiếp phụ tử chia ĺa
Chẳng hay đâu thảo khấu lăng loàn
Phải dự chi mà thấu lư quyền minh
Sao đến nỗi cốt b́ tan nát
Ôi, xưa c̣n nấu thuốc linh đơn, này đă thác theo cḥm mây bạc
Giọt nước mắt chảy dài trên má, ruột gan rối bời bời
Ai chẳng than tức tưởi, phận sử quân lược sa tiền
Thiếp nhỏ giọt châu sa thảm thiết!
Dân Bến Tre cảm mến v́ bà đă làm rạng rỡ chẳng những cho Phụ nữ ở Miền Nam, mà người Phụ nữ Bến Tre c̣n được tiếng thơm lây, nên Ca dao Bến Tre có câu:
Đem chuông lên đánh Sài G̣n
Để cho nữ giới biết con cụ Đồ
Sương Nguyệt Anh chẳng những là một thi sĩ tuy văn thơ bà để lại chẳng nhiều, báo của bà làm không được bao lâu, nhưng sự nghiệp ấy chứng tỏ tài năng bà đích thực là người phụ nữ tiên phong hô hào Nữ giới tham gia vào những hoạt động xă hội, vượt qua rào cản ngăn cách gia đ́nh và xă hội thời bấy giờ.
I.- Công Luận Báo : Do Lê Sum làm chủ bút, phát hành vào ngày Thứ Ba và Thứ Sáu, kể từ báo Công Luận trở đi, mỗi tờ báo sau nầy đều có dành riêng một trang văn thơ, hay ít ra một cột gọi là Văn Uyển.
II.- Trung Lập Báo : Do Phi Vân Trần Văn Chim tác giả Đồng Quê làm chủ bút, đặt biệt báo nầy khởi đăng tiểu thuyết ‘’ Châu Về Hiệp Phố ‘’ của nhà văn Phú Đức, tiểu thuyết nầy sau vẫn c̣n đăng lại ở nhật báo Thần Chung của Nam Đ́nh, Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai, tuần báo B́nh Dân của chính tác giả Phú Đức.
Báo chí đă đóng góp một phần lớn cho việc truyền bá chữ Quốc Ngữ, mặc dù trong thời kỳ đầu nầy, báo chí chỉ được phổ biến trong giới quan lại người Việt, giúp việc trong guồng máy cai trị của Pháp, từ cấp Tổng, Huyện trở lên. Dần dần báo chí lan rộng đến các điền chủ, giáo học, cho đến khi báo chí đăng những truyện tàu, tiểu thuyết lúc ấy báo chí mới được phổ cập đến giới trung lưu ở thôn quê, v́ lúc ấy báo chí đă thoát khỏi cái vỏ công báo, và chữ Quốc ngữ đă được dạy ở các trường học ở thôn quê miền nam.
Tưởng cũng nên ghi nhận, ở Bắc năm 1892 có tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo (in chữ Hán) (21), phải đợi cho đến năm 1905 mới có tờ Đại Việt Tân Báo in cả chữ Quốc Ngữ và Chữ Hán . Năm 1907, tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo có thêm Đăng Cổ Tùng Báo số ra mắt ngày 28-3-1907 do Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ bút.
Sở dĩ báo chí ở Trung và Bắc chậm xuất bản là v́ theo Đạo Dụ ngày 31-5-1906, chánh phủ Nam triều mới đổi mới cho chế độ học và thi cử ở Bắc và Trung, chương tŕnh học vẫn lấy chữ Hán làm gốc, nhưng thêm các khoa Cách trí, Sư kư, Địa dư,Toán pháp dạy bằng Quốc Ngữ và một ít chữ Pháp. Thi Hương và Thi Hội cũng có những bài chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc năm 1915 và ở Trung năm 1919 mới bỏ lối thi cử cũ (22).
Tiến tŕnh báo chí ở Miền Nam, cho chúng ta thấy nó cũng là một yếu tố để truyền bá chữ Quốc Ngữ, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đôi chỗ nói tới nhựt tŕnh thời bấy giờ, đọc T́nh Nghĩa Giáo Khoa Thư trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, chúng ta thấy ghi đậm nét về sự truyền bá chữ Quốc Ngữ, và sự phổ cập báo chí ở Miền Nam.
Ghi chú :
( 1 ) Theo lời Bác sĩ Nguyễn Minh Tâm Giám Đốc Nha Y Tế Học Đường thuộc Bộ Giáo
Dục, trong phiên họp các Trưởng Ty Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên vào cuối năm
1974 tại Bộ Giáo Dục, ông cho biết, có người bán trọn bộ báo nầy cho một người
Mỹ trong năm ấy, giá 1 triệu 5 trăm ngàn đồng Việt Nam (thời giá 1US=200 đồng VN).
( 2 ) Theo Giáo sư Huỳnh Văn Ṭng cho biết tại Thư viện trường Ngôn Ngữ Đông
Phương (L’École National des Langues Orientales) ở Paris, số 3 phát hành ngày
15-7-1865, số 4 phát hành ngày 15-8-1865 và số chót mà thư viện có là số 42,
phát hành ngày 25-10-1909
( 3 ) Hội Đồng Tỉnh.
( 4 ) Phan Long Điền trích dịch, đăng trong Giai Phẩm Bách Khoa ngày 17-8-1974
( 5 ) France: Đơn vị tiền tệ Pháp.
( 6 ) Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, người làng An Nhơn, tỉnh Gia
Định, sau khi thi đậu bằng Trung Học, ông được chánh phủ bảo hộ cho sang Pháp
học và đổ bằng Tú Tài, về Việt nam dạy trường Chasseloup-Laubat, ông được Toàn
quyền Paul-Bert chú ư, nên có đưa ra Bắc và Trung làm việc. Ở Huế ông đảm trách
việc dạy học cho vua Đồng Khánh, tại đây ông kết duyên cùng một bà công chúa,
con của Thoại Thái vương sinh ra Diệp Văn Kỳ cũng là một nhà báo kỳ cựu trong
Nam vào thập niên 30.
Diệp Văn Cương có những tác phẩm sau :
- Recueil de morale annamite (1917)
- Syllabaire quốc ngữ (1919)
- Tập Phong hóa dịch ra quốc ngữ
( 7 ) Đă trích bài Bảo ở chương trước, trong phần tiểu sử Trương Vĩnh Kư.
( 8 ) Số 10, trang 5 và 6.
( 9 ) Số 2, trang 11
( 10 ) Số 1, trang 4
( 11 ) Số 2, trang 3
( 12 ) Số 4, trang 13
( 13 ) Qúnh tương là tích chén nước Vân-anh đưa cho Bùi Hàn uống (coi giải
trong Túy-Kiều) - Tài liệu chú –
( 14 ) Số 1, trang 9
( 15 ) Số 3, trang 4
( 16 ) Số 3, trang 3
( 17 ) Nông Cổ Mín Đàm số 166 ngày 17-11-1904
( 18) Hai trận băo nầy xăy ra vào năm Th́n, nên người ta hay nói ‘’ Năm Th́n
Băo Lụt’’, trong Ca dao miền Nam có câu nói về trận băo nầy :
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc,
Gió nào độc cho bằng ngọn gió G̣ Công.
Thổi ngọn Đông phong lạc vợ xa chồng,
Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.
( 19 ) Nông Cổ Mín Đàm số 173 ngày 5-1-1905
( 20 ) Đường Lê Thánh Tôn Sàig̣n.
(21) Theo Quốc Triều Chính Biên. Năm 1888, tháng 4 quan Đại Pháp mới lập sở Đại
Nam Nhật Báo.
(22) Đề thi Hội cuối cùng năm 1919:
1. Việc chánh trị bây giờ càng khó, Trung Kỳ và Bắc Kỳ t́nh thế khác nhau, nên
sửa sang những điều ǵ trước ? Luận.
2. Nước ta Văn hiến, trải mấy ngàn năm, bây giờ nghĩ phỏng Thái Tây đặt Viện Hàn
Lâm dịch các sách vở. Luận
3. Nước ta việc h́nh luật đời nào cũng trọng, quan hệ nhơn tâm phong tục là thế
nào ? Luận
Khoa thi nầy, kết quả lấy 7 Tiến sĩ và 16 Phó bảng.
( * ) Trở lại Mục Lục