Các nhà văn quốc ngữ tiền phong

Những nhà văn quốc ngữ tiên phong là những người đã dùng chữ quốc ngữ để phổ biến văn chương, học thuật trước tiên mà cũng là những người hô hào truyền bá chữ quốc ngữ đến đại chúng vào thời kỳ sơ khai.

Những nhà văn tiền phong ấy là Trương Vĩnh Ký, Hình Tịnh Của, Trương Minh Ký, đã sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ quốc ngữ. Trong đó Trương Vĩnh Ký soạn và cho in ra Chuyện Ðời xưa năm 1867, còn Huình Tịnh Của soạn quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1895. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy.

1. Sự Ðóng Góp Của Các Nhà Văn Tiền Phong.

Trương Vĩnh Ký đáng được người đời tôn vinh lên hàng bác học như người ta đã làm, chính ông là học giả, là nhà văn tiền phong đã nhìn thấy khả năng chữ Quốc ngữ và ông đã phổ biến chữ Quốc ngữ đến quảng đại quần chúng.

Trước ông, chưa có ai làm việc nầy, cho đến thời đại của ông và công việc ông làm, cho thấy chữ Quốc ngữ đã được công chúng dùng đến. Như vậy nó đã được phổ biến chớ không phải chờ đợi đến người Pháp, người Pháp chỉ là kẻ nhúng tay vào cho nó tiến nhanh, ngõ hầu giúp cho việc cai trị của họ được dễ dàng. Cho nên người bình dân chống đối thực dân Pháp, cũng ngấm ngầm chống lại việc học chữ Quốc ngữ, nên trong mới có Ca dao trên.

Như đã nói, các nhà văn tiên phong gồm có : Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của và Trương Minh Ký. Trong phần nầy, trước tiên chúng tôi muốn dành một chỗ xứng đáng cho học giả Trương Vĩnh Ký, vì ông chính là người tiền phong dùng chữ Quốc ngữ và cổ vũ cho phong trào học Quốc ngữ.

a) Trương Vĩnh Ký (1837-1898)

Tên thật của ông, là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương Vĩnh Ký, tên thánh là Jean Paptiste, tên chữ là Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Paptiste Trương Vĩnh Ký, sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long, sau nầy thuộc tỉnh Bến Tre.

Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và Nguyễn Thị Châu, năm 1842, được 5 tuổi, ông học chữ hán với ông giáo Học. Năm 1847, cha ông qua đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom Penh), có lẽ sau đó, mẹ ông giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu dắt của vị giáo sĩ nầy, ông học chữ Quốc ngữ, sau đó giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên Việt là linh mục Long, đem về nhà dòng chánh ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.

Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835 hạ Chiếu cấm đạo, nên năm 1848, Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchea, đây là trường đạo dành để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Ðiện và Trung Hoa , nhờ ở chung với học sinh các nước Ðông Nam Á mà ông học nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên.

Năm 1851, Trương Vĩnh Ký theo Linh mục Long qua họctại Tổng Chủng Viện Viễn Ðông Quốc Ngoại Truyền Giáo ở Poulo-Pénang (Hạ Châu). Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học về văn chương, khoa học, triết lý qua chữ La tinh, và ở tại đây, công có dịp học thêm các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn Ðộ và Nhật.

Năm 1858, được tin mẹ mất, ông rời Poulo-Pénang trở về Cái Mơn, năm nầy ông được 21 tuổi. Hai năm sau, qua sự giới thiệu của Linh mục Lefèvre, Trương Vĩnh Ký ra làm thông ngôn cho Ðại úy Jauréguiberry. Năm 1861, ông lập gia đình với bà Vương Thị Thọ rồi lập gia cư ở Chợ Quán (nay ở ngay tại góc đường Trần Hưng Ðạo và Trần Bình Trọng, quận 5 Sàigòn). Năm 1862, ông bị chuyển ra làm việc ở Huế.

Năm 1863, Trương Vĩnh Ký được Pháp phái theo sứ bộ Nam triều do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, phái bộ sang triều kiến Pháp hoàng Napoléon III. Nhờ sứ trình nầy, ông có dịp viếng các nước Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai Cập, Ý, La Mã. Tại La Mã, ông được Giáo hoàng Pio IX tiếp kiến, còn trong lúc ở Paris, ông kết thân với các nhà thông thái, danh vọng nước Pháp như Paul Bert, Duruy, Littré ... Ông được cử vào Hội viên của hội chuyên khảo về Nhân loại, và hội chuyên học tiếng Ðông phương.

Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn ngữ Ðông Phương ở Trường Thông Ngôn ( Collège des Interprètes).

Ngày 16-9-1869, ông được Thống soái Nam Kỳ Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Ðịnh Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến năm 1872, Năm nầy ông được thăng Tri Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).

Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy, ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ của ông là Paul Bert sang làm Thống Ðốc Nam Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân khấu chánh trị, một bước phù du mà cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng một thời đã mai một!

Trước tiên Paul Bert lấy tình thân hữu nhờ ông giúp cho vài việc liên lạc với triều đình Huế (1), sau sung Cơ Mật Viện và làm Giám quan, cố vấn cho vua Ðồng Khánh.

Ngày 11-11-1887, Paul Bert mất, ông có dịp rời khỏi sân khấu chánh trị mà cả phía Pháp cũng như quan lại Nam triều, kẻ không tin cẩn, người lại không ưa ông. Trở về nhà, ông sáng tác và vui thú văn chương.

Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ, đọc Ý sách Chuyện Ðời Xưa để thấy rõ hoài bão của ông:

Kêu rằng chuyện đời xưa, vì nó là những chuyện kẻ lớn trước ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế.

Ta cũng có thêm một hai chuyện thiết tích mà có ý vị vui, dễ tức cười, cũng để cho người ta thấy khen mà bắt chước, thấy chê mà lánh.

Góp nhóp trộn trạo chuyện nọ chuyện kia, in ra để cho con nít tập đọc chữ quốc ngữ, cũng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen.

Nay ta in sách nầy lại nữa: vì đã hết đi, cũng vì người ta dùng sách nầy mà học tiếng, thì lấy làm có ích. Vì trong sách ấy cách nói là chính tiếng An Nam ròng, có nhiều tiếng nhiều câu thường dùng lắm.

P.J.B. Trương Vĩnh Ký

Năm 1888, ông xuất bản một nguyệt san lấy tên là Thông Loại Khóa Trình ( Miscellanées ou lectures intructives pour les éleves des écoles primaires, communales et cantonales et les familes), nguyệt san nầy số 1 không có ghi ngày tháng xuất bản, chỉ có ghi năm 1888, từ số 3 trở đi có ghi thêm Juillet 1888 và các số sau ghi mỗi số một tháng kế tiếp. Như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) 1888 và số sau cùng là số 18 năm 1889, in khổ 16cm X 24cm, mỗi số có 12 trang.

Sau đây trích trang 3 số 1. ( Có hàng chữ Hán : Thường Bả Nhất Tâm Hành Chánh Ðạo)

  道  正  行  心  一  把  常  

Bảo

Coi sách dạy lắm, nó cũng nhàm; nên phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú.

Vậy ta tính làm ra một tháng đôi ba kì, một tập mỏng mỏng nói chuyện sang đàng, chuyện tam hoàng cuốc chí, pha phách lộn lạo xào bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà chẳng phải chơi không vô ích đâu, cũng là những chuyện con người ta ở đời nên biết cả. Có ý có chí thì thì lâu nó cũng thấm, như là trí con trẻ còn đang sáng láng sạch sẻ, tinh thần còn minh mẫn, tươi tốt như tờ giấy bạch, như sáp mềm, vẽ vời, uốn sửa sắc nào thế nào cũng còn đặng: tre còn măng dễ uốn, con còn nhỏ dễ dạy.

Phép học là trước học lễ sau học văn; được cả hai ấy mới ra con nhà gia giáo, biết phép tắc, lễ nghi, can thường, luân lý, biết chữ nghĩa văn chương, kinh sử, truyện cổ tích cổ kim ấy là đấng đợt con người tử tế: ở đời dù sao cũng chẳng nao, chẳng mếch: vì hể người 道 心 人 đạo tâm nhơn, người 孝 心 人 hiếu tâm nhơn, người 好 心 人 hảo tâm nhơn, và người 善 心 人  thiện tâm nhơn thì 皇 天 不 負  hoàng thiên bất phụ. Lấy đó làm mực mà ở thì nên, vì trời đất không lầm 天 地 不 錯  thiên địa bất thác. Hãy cứ thường nắm một lòng làm đạo chính thì sẽ qua truông đời xống ( 2 ), xống bình an vô sự.

P. Trương Vĩnh Ký

Chẳng những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong xứng danh của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng, ông đã được các vinh dự:

1-10-1863: Lãnh huy chương Dõng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã.
27-6-1886: Lãnh huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha.
15-2-1876: Ðược cử làm hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu.
07-7-1878: Ðược cử làm hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris.
17-5-1883: Lãnh huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của nước Pháp.
17-5-1886: Lãnh Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều.
04-8-1886: Lãnh Bắc Ðẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của nước Pháp.
03-6-1887: Lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của nước Pháp.

Ông cũng có lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng Gia Cam Bốt.
Vua Ðồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm Viện thị giảng học sĩ.
Vua Khải Ðịnh ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
Vua Bảo Ðại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.

Trong khoảng năm 1873-1874, ông được liệt vào hàng thế giới thập bát văn hào, xếp theo mẫu tự như sau :

Bác sĩ Allemand, Banadona d'Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot (Jules), Ðại tướng Chambron, Bá tước Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat (Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre-Pontalis (Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chế Saldonha Oliveirae Daun.

Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký không thích con đường chính trị, ông lại thiết tha với nền văn học chữ quốc ngữ, ông có chủ đích quay về sự nghiệp văn chương của mình, khi Paul bert mất, ông không ngần ngại từ bỏ sân khấu chánh trị, trở lại nghề dạy học, viết sách dạy các thứ tiếnng Ðông phương, về phương diện nầy, ông là nhà ngôn ngữ học quảng bác, vì ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Ðông phương.

Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Ðại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Ðông phương, chính ở phương diện nầy chúng ta thấy ông là nhà văn hóa, ở sân khấu chánh trị ông mong tạo sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chánh trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng phải nhận ông vẫn giữ được phong hóa Ðông phương, thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh, điểm nầy chúng ta xem lại bài di huấn của ông viết vào ngày 8-11-1870.

"Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khóị Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong..."

Và sau đây là bài thơ ông sáng tác lúc gần ngày lâm chung :

     Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
     Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
     Học thức gửi tên con sách nát,
     Công danh rốt cuộc cái quan tài.
     Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,
     Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài !
     Cuốn sổ bình sanh công với tội,
     Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.

Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi. Mộ của ông hiện ở góc đường Trần Hưng Ðạo và Trần Bình Trọng Sàigòn, trong khuôn viên nhà của ông ngày xưa ở Chợ quán. Thời Pháp, tưởng nhớ công nghiệp của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu bịt khăn đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt trong khuôn viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh Ðộc Lập.

Tại Thủ đô Sàigòn, Bộ Giáo Dục dành một trường Trung Học Lớn mang tên ông, Trường Trương Vĩnh Ký nằm cạnh Trường Ðại Học Khoa Học Sàigòn.

Kê ra những sách và bài của ông đã viết để thấy văn nghiệp của ông đồ sộ, phong phú và đa dạng (3):

  1. Năm 1865 : Cours pratique de langue Annamite, à l'usage du college des interpretes.
  2. Năm 1867 : Contes Annamite (Chuyện đời xưa)
  3.        "       : Abrégé de Grammaire Annamite
  4. Năm 1872 : Grammaire Francaise (Mẹo Luật dạy tiếng Lang sa)
  5. Năm 1875: Petit cours de Geographie de la Basse-Cochinchine
  6.      "         : Histoire Annamite en vers (Ðại Nam quốc sử diễn ca)
  7.      "         : Cour de Langue Annamite (autographié)
  8.      "         : Cour de Langue Mandarine ou de Caractes Chinois (autographié)

9.      "           : Kim Vân Kiều-Poème transcrit pour la première fois en quốc ngữ avec des notess explicatives, précédé d'un résumé succinet du sujet en prose et suivi de quelques pièces de vers relatives à la même histoire.

10. Năm 1876: Manuel des Écoles Primaires-(Syllabaire quốc ngữ, Histoire Annamite, Histoire Chinoise (en ananmite)

11.      "           : Quatre livres classiques en caractères Chinois et en annamite (autographié)

  1.    "           : Alphabet quốc ngữ
  2. Năm 1877: Sơ học vấn tân Répertoire pour les nouveaux étudiants en caractères
  3. Năm 1879: Cour d'Histoire Annamite, en 2 volumes
  4. Năm 1881: Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc kỳ năm Ất hợi)
  5.      "         : Retraite et Apothésose de Trương Lương.
  6.      "         : Les convenances et les Civilités Annamites.
  7. Năm 1882: Saigon d'autrefois.
  8.       "        : Saigon d'aujourd'hui.
  9.       "        : Passe-temp (Chuyện khôi hài)
  10.       "        : Apologie de Trương Lương (Trương Lương hầu phú)
  11.        "         : Événement de la vie (Kiếp phong trần, 3è edition)
  12.       "        : Fais ce que doit, advienne que pourra (Bất cượng)
  13.       "        : Devois des Filles et des Femmes.
  14.       "        : La Bru (Thơ dạy làm dâu)
  15.       "        : Défaut et Qualités des Filles et des Femmes.
  16. Năm 1883: Guide de conversation Annamite Francaise (Sách tập nói tiếng An-nam Phangsa)
  17.       "        : École domestique ou un Père et à ses Enfants.
  18.       "        : Caprises de la Fortune (Thạnh suy bỉ thời phú)
  19.       "        : Procription des Corbeaux (Bài hịch con quạ)
  20.       "        : Un lettré pauvre (Hàn nho phong vị phú)
  21. Năm 1884: Grammaire de la Langue Annamite (Sách mẹo tiếng Annam)
  22.       "        : Tam tự kinh.
  23.       "        : Sơ học vấn tân.
  24.       "        : La Digne (Mắc cúm từ)
  25.       "        : Jeux et Opium (Cờ bạc, nha phiến)
  26.       "        : La Bucheron et la Pêcheur (Ngư tiều trường điệu)
  27.       "        : Huấn mông ca Transcription et traduction en annamite et en francais.
  28. Năm 1885: Alphabet Francais pour les Annamite.
  29. Năm 1886: Conférence sur le Souvenir histoirique de Saigon et de ses environs.
  30.       "        : Cours de la Langue Annamite aux Européens-Phrasélogie-Thèmes versions.
  31.       "        : Cours d'Annamite aux Élèves Européens-Explication du Lục Vân Tiên
  32.       "        : Cours d'Annamite aux Élèves Annamites-Explication du Lục Vân Tiên
  33.       "        : Prosodie et Versification Annamite-Cour d'Annamite aux Élèves Annamite.
  34. Năm 1886: Dispute de Mérite entre les six Animaux domestique (Lục súc tranh công)
  35.       "        : Maitre et Élève sur la Grammaire Francaise (Thầy trò về mẹo luật tiếng Phangsa).
  36.       "        : Kim Vân Kiều en prose-Converti et commenté en langue vulgaire pour les Élèves Annamite.
  37.       "        : Théâtre, Comédies, Chants, Chansons Annamite (Hát lý hò Annam) Cours aux Elèves Annamite
  38. Năm 1887: Cours de caractères Chinois, 2è année-Explication du Mencius, Thèmes, Versions et explication des pièces officielles.
  39.       "        : Vocabulaire des Mot usueles, Noms et termes Techniques, Scientifiques, et Administratifs.
  40.       "        : Livres Élémentaire de 3.000 caractères (Tam thiên tự giải nghĩa).
  41.       "        : Résumer de la Chronologie de l'Histoire et de la Production de l'Annam en Tableau Synoptiques (Ước lược sự tíchnước Nam)
  42.       "        : Précis de Géographie
  43.       "        : Les six Annimeaux domestiques (Lục súc)
  44. Năm 1888: Ðại Nam thập nhứt tỉnh thành đồ.
  45.       "        : Miscellanées ou Lectures instructives pour les Élèves des Écoles primaire, communales et cantonales et les Familles.
  46. Năm 1889: Poème populaire (Lục Vân Tiên)
  47.       "        : Poème populaire (Phan Trần)
  48.       "        : Cours de Siamois
  49.       "        : Cours de Langue Malaise, professé et autographié jusqu' a la 7è lecon.
  50.       "        : Ðại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
  51.       "        : Quatres Livres classiques en Caractères Chinois et en Annamite-Grande Étude Invariable Milieu.
  52.       "        : Grand Dictionnaire Annamite Francaise-1er feuille comme spécimen
  53. Năm 1890: Cours de Cambodgien (Ecriture et langue)
  54.       "        : Vocabulaire du Cours d'Annamite.
  55.       "        : Vocabulaire du cours de Caractères Chinois.
  56. Năm 1891: Cours de Littérature Chinoise.
  57.       "        : Cours de Littérature Annamite.
  58.       "        : Programme Générale d'Études des les Écoles Annamites.
  59.       "        : Modèles des Pièces officielles et administratives en caractères.
  60.       "        : Généalogie de la Famille de P. Trương Vĩnh Ký.
  61.       "        : Sĩ viên thi thảo.
  62.       "        : Recueil de Brochures sur l'histoire de la littérature annamite, relié.
  63. Năm 1894: Cours d'Annamite parlé (vulgaire)
  64.       "        : Grand Dictionnaire Francais-Annamite (invachevé)
  65. ( 4 ) : Grammaire de la Langue Chinoise (Mẹo chữ Nhu)
  66.   "   : Grammaire Annamite en Annamite (Mẹo tiếng Annam)
  67.   "   : Langage de la Cour en Extrême-Orient
  68.   "   : Vocabulair Francais-Malais
  69.   "   : Guide de la Conversation Malaise-Francaise
  70.   "   : Vocabulair Francais-Cambodgien
  71.   "   : Guide de la Conversation Cambodgienne-Francaise
  72.   "   : Vocabulaire Francais-Siamois
  73.   "   : Vocabulaire Siamoise-Francaise
  74.   "   : Cours de la Langue Birmane
  75.   "   : Vocabulaire Birman-Francais
  76.   "   : Guide de la Conversation Birmane-Francaise
  77.   "   : Cours de Ciampois
  78.   "   : Vocabulaire Ciampois-Francais
  79.   "   : Guide de la Conversation Ciampoise-Francaise
  80.   "   : Cour de la Langue Laotienne
  81.   "   : Vocabulaire Laotien-Francais
  82.   "   : Guide de la Conversation Laotienne-Francaise
  83.   "   : Cours de la Langue Tamoule
  84.   "   : Vocabulaire Tamoul-Francais
  85.   "   : Guide de la Conversation Tamoule-Francaise
  86.   "   : Cours de la Langue Indoustane
  87.   "   : Vocabulaire Indoustan-Francais
  88.   "   : Guide de la Conversation Indoustane-Francaise
  89.   "   : Minh tâm-La précieux Miroir du Coeur (en 2 vol)
  90.   "   : Cours de la Géographie de l'Indochine avec carte générales et partiuculières en six parties:  1. La Cochinchine-francaise, 2. L'Annam central, 3. Le Tonkin, 4. Le Cambodge, 5. Le Siam, 6. La Birmanie.
  91.   "   : Cours d'Annamite écrit (Mandrin ou de caractères chinois)
  92.   "   : Mencius-(Quatre Livres) No 3
  93.   "   : Luận ngữ (Quatre Livres) No 4
  94.   "   : Dictionnaire Chinois-Francais-Annamite.
  95.   "   : Annam Politiqye et Social
  96.   "   : Dictionnaire biographie Annamite (ou De Viris illustribus regni Annamitici)
  97.   "   : Flore Annamite
  98.   "   : Produits de l'Annam
  99.   "   : Dictionnaire Géographie Annamite.
  100.   "   : Les Droits de l'Annam dans la Vallée du Mékong (Mémoire sur)
  101.   "   : Recueil de Chansons populaire Annamites
  102.   "   : Recueil d'Oraisons funèbres Annamites
  103.   "   : Recueil de pièces de théâtre Annamite
  104.   "   : Sujets Histoiriques des Poèmes Annamites
  105.   "   : Étude comparée sur les Langues, Écritures, Croyances, et Religions des Peuples de l'Indochine.
  106.   "   : Combinaisiondes systèmes d'écritures idéographique, hiérogkyphique, phonétique, alphabétique
  107.   "   : Étude comparée des Langues et des Écritures des trois branches linguistique.
  108. Năm 1937: Petit Dictionnaire Francais-Annamite à l'usage des écoles et des bureaux.

Sau khi kê các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, chúng ta thấy khoảng thời gian 33 năm với 119 tác phẩm chúng ta được biết đến, có thể có những tác phẩm đã bị thất lạc nên không có trong danh sách nầy.

Văn nghiệp để lại đồ sộ, phong phú, đa dạng, gồm nhiều địa hạt như : Triết học, Văn học, Sử học, Ðịa lý... Riêng về ngành ngôn ngữ học, ông đã viết nhiều sách dạy tiếng Á Châu như : Trung Hoa, Lào, Kam pu chia, Thái Lan, Miến Ðiện, Mã lai, Ấn Ðộ chứng tỏ ông là nhà thông thái hiếm có, danh tiếng của ông chẳng những chỉ có ở trong nước mà còn có ở nước ngoài thời bấy giờ.

Cho nên về văn học chữ quốc ngữ, Pétrus Trương Vĩnh Ký thật xứng danh là một nhà văn tiền phong.

Trích Văn:

Cương Từ Thức Truyện ( 5 )

Năm Quang-thái đời Trần, ở trong xứ Hóa-châu (Huế, ngũ quang) có tên Từ-Thức vốn dòng-trâm anh. Cha người xưa dự bực công khanh, nhờ ơn vua nên mạng tù thân, làm quang Tể-huyện coi hạt Tiên-du. Gần miền có một chùa tên là Lam-tích, góp thâu cảnh bầu thiên, mẫu-đơn một đóa sen mấy nhành, tiếng đồn khắp hết gần xa, trẻ già náo-nức yến anh dập diều.

Từ-Thức cũng ra đi coi cho biết, tới nơi hoa mẫu-đơn, bỗng đâu xảy gặp một người xinh tốt lịch-sự quá chừng quá đỗi, trên trời cũng ít có, dưới đời thì hản không. Thấy nàng (Giáng-hương) bị kẻ giữ hoa bắt cầm, thì thương mới đòi trẻ tùy-nhi mà biểu nó đi hỏi vì cớ làm sao làm vậy? Người ta nói nàng coi hoa nên bị bắt. Từ-Thức rằng trọng vọng gì thứ ấy, mà khách tiên phải tay phàm nhủm-nha như vậy. Bèn bước tới cổi áo gấm ra cho thằng canh, mà xin tha cho nàng đi.

Nàng tiên cám ơn Từ-Thức hết lòng. Rồi từ tạ trở về cõi tiên. Chàng Từ-Thức từ ấy những thương những nhớ luôn luôn, nên buồn đi chơi mãi, những say cảnh vật thú vui. Sau treo ấn-tín từ chức quờn đi. Sắm thuyền tớ thầy đi lưu-linh dạo cảnh chơi, đụng hang nào ghé hang nấy coi; khỏi Xích-bích tới Viên-đào, trải qua non nước khắp nơi. Ngày kia trông ra cửa Thần-phù, (6) ngoài xa biển, ở bắc quấc chạy qua nam phương, mới nói với nàng Giáng-hương mà xin về thăm quê đặng có phú trối việc nhà cho an rồi hãy trở lại non tiên mà ở mãn kiếp cùng nhau. Nàng Giáng-hương mới năn nỉ cầm ở lại, mà chàng Từ-Thức rằng-rằng quyết một xin về. Ðem nhau vào chầu chúa Tiên coi thử người phán dạy lẽ nào. Chúa tiên phán rằng chàng còn lòng tục chưa dời, còn nhớ tưởng sự đời bấy lâu thì thôi, về thì cho về, cho xe tiên đưa về. Giáng-hương mới trao một bức thơ phong làm của đưa chàng.

Chàng Từ-Thức cầm thơ từ tạ ra về. Tới nơi thì đã vật đổi sao dời khác xưa. Tìm nhà nhà chẳng còn; tìm người, người những mặt lạ cả; không thấy lấy một người quen, hỏi ông bà già cả, thì nói không biết, nói tên nói họ ra cũng không ai biết; các ông già nói: từ thuở nhỏ có nghe nói tên ấy họ ấy mà biết đã mấy đời rồi bây-giờ còn ở đâu mà tìm?

Từ-thức ngơ ngáo không biết làm sao, muốn trở lại non tiên cùng nàng Giáng-hương, hay đâu sự dở-dang ra rồi; xe mây đưa mình nó đã đi mất đi. Một mình bơ vơ ngao ngán, mới mở thơ ra mà coi, thì biết đã đành cách-biệt, không còn lẽ trở lại nữa được. Thở than than thở ra đi, chun vào ở núi Huỳnh-sơn, ở ăn đó làm sao thì biệt tích không rõ đặng.

(Miscellanées No 8 Decembre 1888, trang 15-16)

Đối được vợ

Anh học trò khó lịch-sự bảnh bao người, đi khuyên giáo, tới nhằm cái nhà kia giàu có. Trong nhà thợ đương làm ầm ầm ạc ạc, cũng có tiếng thầy lang ( thầy thuốc) với thầy pháp tới đó nữa.

Con gái nhà ấy đã đúng tuổi chưa có chồng, thấy vậy thì thương, ra nói rằng: "Thôi đừng có đi khuyên giáo làm chi mà xấu hổ đạo học trò, để tôi ra cho một câu đối, ai đáp được trúng ý tôi thì tôi sẽ lấy người ấy làm chồng.

Ai nấy nghe ham chợp rợp. Xin ra câu đối đi. Cô ấy ra rằng:
"Ðế Nghiêu, đế Thuấn, đế Võ; Võ, Nghiêu, Thuấn, tam đế truyền hiền".
Chú thợ mộc hớp tớp đối lại rằng:
"Bào rà, bào tách, bào xoi; xoi, rà, tách, ba bào phạt mộc".
Thầy pháp cũng nóng đối rằng:
"Lôi thiên, lôi tướng, lôi bồng; bồng, thiên, tướng, tam thiềng trừ quỉ".
Thầy chùa xen vào đối rằng:
"Bồ đề, bồ Tát, bồ lương; lương, Ðề, Tát, tam bồ cứu khổ".
Thầy lang lại đối rằng:
"Huỳnh cầm, huỳnh bá, huỳnh liên; liên, cầm, bá, tam huỳnh giải nhiệt".
Anh học trò lịch ịch ở sau, đối rằng:
"Vương Văn, Vương Khải, Vương Thang; Thang, Văn, Khải, tam vương kế thánh".

Ðối trúng ý, trúng đề, cô ấy chấm được.

May cha chả là may; sẵn nhà, sẵn cửa, sẵn cơm, sẵn gạo; nhảy phóc vô đó một cái, sướng đã nên sướng !

(Chuyện khôi hài - Passe-temps - bài số 9)

b) Huình Tịnh Của (1834-1907)

Huình Tịnh Paulus Của hay Huình Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Ðốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam.

Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Ðịnh báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d'Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.

Là tự vị quốc âm nên mỗi chữ ông ghi chữ Nôm rồi tới chữ quốc ngữ có ký chú n: nôm, c: chữ (từ Hán Việt), sau đó mới giải nghĩa, nếu là từ Hán Việt, đôi khi ông thêm câu chữ Hán vào, ví dụ : chữ Quấc trang 217 tập II .

(Chữ Nôm) Quấc n (Coi chữ quốc)

Con ---. Thứ chim đồng cao giò và hay kêu,

chữ gọi là (Ðỗ)(Quyên), (Ðỗ)( Võ),(Tử)(Qui)

Ðỗ quiên, đỗ võ, tử qui.

Dò --- . Dài giò

Cách hành văn của ông rất mộc mạc và bình dân, cho đến nay chưa tìm thấy tác phẩm nào ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông cho chúng ta thấy, ông đã chú trọng vào việc điển chế và phổ biến chữ quốc ngữ.

Văn nghiệp của ông gồm có :

- Chuyện giải buồn (1880)
- Chuyện giải buồn, cuốn sau (1885)
- Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập I (1895)
- Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập II (1896)
- Tục ngữ, cỗ ngữ, gia ngôn (1896)
- Gia lễ quan chế
- Ca trù thể cách
- Bạch Viên Tôn Các truyện
- Chiêu quân cống Hồ truyện
- Thoại Khanh Châu Tuấn truyện
- Thơ mẹ dạy con
- Quan Âm diễn ca

Trích văn :

Chuyện ký viên

Ông Ký-viên, thuở còn đi học, dạo ra ngoài đồng, thấy có ba ông già chừng bảy, tám mươi tuổi, tóc râu trắng bạc, lum khum cuốc đất, công việc làm như kẻ còn trai. Ông Ký-viên hỏi: - Ba ông tuổi tác chừng ấy, tiếp dưỡng thế nào, mà sức lực còn mạnh thể ấy ? Một ông trả lời rằng: Thất nội cơ thô xú (nghĩa là trong nhà vợ thô kém); một ông đáp rằng: Vãn phạn giảm sổ khẩu (nghĩa là: cơm chiều bớt và miếng); ông thứ ba đối lại rằng: Dạ ngọa bất phúc thủ (nghĩa là: Ðêm nằm chẳng úp đầu). Ông Ký-viên bèn nối ba câu ấy mà rằng : Chỉ tại tam tẩu ngôn, Sở dĩ thọ trường cửu (nghĩa là: ý chỉ thay lời ba ông, chỗ do sống lâu xa)

Chính là lời dạy người ta muốn hưởng tuổi xa, thì phải tiết ẩm thực, viện sắc dục, vẫn hợp với lời Tiền Kiên ca rằng: Thượng sĩ dị phòng, Trung sĩ dị bị, phục dược bách lõa, bất như độc ngọa; (nghĩa là: kẻ thượng sĩ riêng phòng, kẻ trung sĩ riêng mền; uống thuốc trăm viên, chẳng bằng nằm riêng)

Ðính vận cả hai bài ca:

     Thất nội cơ thô xú
     Vãn phạn giảm sổ khẩu
     Dạ ngọa bất phúc thủ
     Chỉ tai tam tẩu ngôn!
     Sở dĩ thọ trường cửu.

( Trích Miscellanées)

c) Trương Minh Ký (1855-1900)

Trưong Minh Ký có biệt hiệu là Thế Tải, ông sanh ngày 23-10-1855 tại Gia Ðịnh, là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Ðịnh báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn.

Trương Minh Ký không được người ta chú ý nhưng vừa là môn đệ, vừa là người cộng tác thân cận với Trương Vĩnh Ký, xét qua văn nghiệp, cũng xứng đáng dành cho ông một chỗ đứng trong các nhà văn tiền phong chữ quốc ngữ.

Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi.

Ông có được ân thưởng:

Ông mất vào ngày 11-8-1900, mộ ông được chôn cất trong nghĩa trang gia đình, nơi Trương Gia Từ nằm trên đường Lý Thường Kiệt, Gò Vấp, Gia Ðịnh ( Gần Tổng Y Viện Công Hòa).

Văn nghiệp của ông gồm có:

Trích văn:

Gà đẻ trứng vàng

Tham thì thâm. Tôi muốn dẫn chứng lời nầy là thuật chuyện con gà thường bửa đẻ ra một trứng vàng, củ gà tưởng trong mình con gà có một cái kho vàng. Nó đem làm thịt đi, mổ ra coi thấy cũng giống như gà thường vậy. Ấy bởi bổn thân làm cho mình phải mất của quí trọng của mình.

(Gia Ðịnh báo số 18 ngày 6-5-1882)

Nữ nhi ca

     Ăn vóc học hay
     Một ngày một lớn
     Bớt giỡn bớt chơi
     Cười cười nói nói
     Khoe giỏi khoe khôn
     So hơn tính thiệt
    Cướp việc tranh công
     Ăn chùng nói vụng
     Làm nũng khóc la
     Nghịch cha nghịch mẹ
     Hiếp trẻ đánh em
     Nhem thèm sắp nhỏ
     Ðiều có nói không
     Ðòi bồng đòi ẫm
     Ði tắm không kỳ
     Mặt lỳ mày lợm
     Ðóng khớm, đóng hờm
     Ðổ cơm đổ cháo
     Vọc gạo giỡn tiền     
     Bông kiềng vòng chuỗi
     Ðòi cổi đòi đeo
     Leo trèo nhảy múa
     Chưỡi rủa rầy la
     Gần xa nghe tiếng
     Làm biếng ngủ ngày
     Từ rày bỏ hết
     Có nết có na
     Thờ cha kính mẹ
     Thương trẻ mến em
     Dưới êm trên thuận
     Ði đứng dịu dàng
     Ra đàng tề chỉnh
     Cung kính khiêm nhường
     Kẻ thương người mến
     Ai đến hỏi chào
     Có sao nói vậy
     Mắt thấy tai nghe
     Còn e lầm lỗi
     Phước tội chẳng chừng
     Nên đừng nói bậy
     Kẻ vạy người ngay
     Mặc ai phải chẳng
     Ngay thẳng thiệt thà
     Việc nhà lần học
     Kẻ tóc chơn tơ
    Ngày giờ phải tiếc
     Cứ việc làm ăn
     Cho bằng chúng bạn
     Việc bán việc buôn
     Học khôn học khéo
     Thêu kiểu vá may
     Hàng ngày ra sức
     Bánh mức nem bì
     Món chi cũng giỏi
     Mới gọi gái lành
     Rạng danh thục nữ
     Quân tử hão cừu
     Danh lưu hậu thế
     Dạy để mấy lời
     Phen người dồi ngọc

     Trương Minh Ký làm

(Miscelanées số 8 Decembre 1888 trang 15)

chức cẩm hồi văn

     Chàng vâng hoàng chiếu thú an biên,
     Ðưa tới Hà kiều rẻ thảm riêng,
     Ngậm thở ngùi than ngừng giọt lụy,
     Ân tình xa cách chớ hề quên.
                          *
     Ði ra tin đứt có dè sao!
     Màn trướng đầu xuân ấm đặng nào !
     Dưới bụi quỳnh diêu rêu biếc láng,
     San hô trong trướng bụi hồng bao.
                          *
     Nỗi lìa thuở ấy bắt kinh hoàng,
     Ðem giũ lòng đâu gặp lại chàng;
     Lòng ước làm trăng ngoài biển cả,
     Hoặc làm mây nước chói cao san.
                          *
     Mây móc hàng năm thấy mặt chồng,
     Hàng năm trăng biển giọi soi cùng,
     Bay đi bay lại cho gần được,
     Muôn dặm thấy nhau kẻo đợi trông.
                           *
      Ðường sá vơi vơi cách trở thay !
     Hờn chàng ngoài ải ở lâu ngày;
     Thuở đi đưa đó lau vàng lá,
     Ai ngỡ hoa mai nở bấy chầy.
                           *
     Trăm hoa rộn rực sớm chào xuân,
     Ai đó mà xuân giục kẻ than,
     Ðầy đất dương sà vì đó vén,
     Bông rời không kẻ quét đầy đàng.
                           *
     Thiệt thơm xuân sớm lối ngoài vườn,
     Ôm lấy tần tranh tới hoa đường.
     Ngâm khúc Giang nam vì đó khảy,
     Tình sâu xin gửi thấu lòng chàng.
                            *
     Bắc phương hiểm trở vượt non sông,
     Muôn dặm non từ dứt nẻo thông,
     Trấp bạc gối đầu dầm áo lụy,
     Chữ vàng xiêm giẻ thảy xười bông.
                              *
     Ba xuân hồng nhạn tiếng qua sông,
     Ấy đó người lìa đứt ruột trông,
     Chửa đứt dây đờn lòng đã đứt,
     Ðã xong mối thảm, khúc chưa xong.
                              *
     Chàng nay nhớ thiếp nặng bằng non,
     Thiếp cũng nhớ chàng mỗi phút luôn,
     Một bổn dệt đem dâng cúng chúa,
     Cầu tha chồng thiếp sớm về cùng.

                 Trương Minh Ký

2. Việc thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ của người Pháp.

Từ năm 1867, quyển Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký ra đời và trước đó năm 1865 tờ Gia Ðịnh báo được in bằng chữ quốc ngữ, nhà cầm quyền Pháp tại miền Nam đã thấy phương tiện truyền thông bằng chữ quốc ngữ cho người Việt Nam có khả năng thích hợp hơn chữ Pháp, chữ Hán hay chữ Nôm, vì nó dễ học, người Việt nhờ chữ quốc ngữ mà thông hiểu trực tiếp ngôn ngữ của mình. Về điểm nầy chúng ta có thể đọc một đoạn văn trong Gia Ðịnh báo:

"Thầy Ký ( Trương Vĩnh Ký ) dạy học, có làm sách mẹo dạy tiếng Lang-sa, có làm ra chữ quốc-ngữ để người ta dễ học, những người ký-lục giỏi cùng siêng-năng sẽ lo mà học chữ quốc-ngữ vì có hai mươi bốn chữ mà viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẽ cũng viết đặng, không phải như chữ ta (7), học già đời mà còn có những chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường (8) đã học dặng chữ quốc-ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết"

(Gia-định báo, ngày 15-4-1867) (9)

Hơn 10 năm sau, nhà cầm quyền Pháp quyết định dùng chữ quốc ngữ để làm văn tự chánh thức cho miền Nam. Sự việc nầy không phải chánh phủ Pháp muốn khai phá cho dân Việt, mà đây cũng chỉ là một trong những mưu đồ thôn tính Việt Nam. Chẳng hạn như :

Ngày 1-2-1862: Lập khám đường ở Côn Nôn

Tiếp theo cũng trong mưu đồ thiết lập vững mạnh và lâu dài nền cai trị đất Nam Kỳ, nhà cầm quyền Pháp đã ban hành Nghị định số 82 ngày 6-4-1878, nội dung như sau:

Ðiều thứ 1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1882 tất cả văn kiện chính thức, nghị định, quyết nghị, sự vụ lệnh, án lệnh, chỉ thị và các văn kiện khác đều sẽ viết, ký và công bố bằng chữ La-tinh.

Ðiều thứ 2. Cũng kể từ ngày ấy, sẽ không được ban cho bất cứ một bổ nhiệm nào, một thăng cấp nào trong hàng nhơn viên phủ, huyện và tổng, cho bất cứ là ai mà không đủ sức viết công văn bằng Quốc ngữ.

Ðiều thứ 3. Cũng kể từ ngày ấy và dĩ chí ngày 01-01-1886, hương thân nào cũng được miễn thuế thân, hương hào nào cũng chỉ đóng phân nữa thuế thân và biện lại nào cũng được miễn sưu, nếu họ đủ sức viết công văn bằng Quốc ngữ.

Ðiều thứ 4. Kể từ ngày 01-01-1886, không ai được lãnh các nhiệm vụ trên đây, nếu không biết Quốc ngữ đàng hoàng.

Tuy nhiên, biện pháp nầy chỉ được miễn cho những người nào trước thời gian đó đã được chú ý vì họ sốt sắn và lương thiện trong lúc thi hành các nhiệm vụ ấy.

Thống đốc Nam Kỳ

Lafont (10)

Nghị định 82 nầy chỉ nhằm bó buộc và khuyến khích những người làm việc cho Pháp từ cấp huyện, tổng và làng xã, là cấp thừa hành để giúp cho công cuộc cai trị của họ được dễ dàng, thuế vụ không bị thất thu.

Như vậy chúng ta thấy rõ Nghị định 82 đã thúc đẩy cho việc sử dụng chữ quốc ngữ trở nên chánh thức tại Miền Nam.

3 Kết Luận.

Thời kỳ chữ quốc ngữ phát triển chính là thời kỳ nầy trong tiến trình hình thành của nó. Cho đến nay, chúng ta biết Gia Ðịnh báo là một sản phẩm đầu tiên sử dụng chữ quốc ngữ, nhằm phổ biến nghị định, tin tức... thuộc về nhà cầm quyền chủ trương, còn quyển Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký có chủ đích phổ biến chữ quốc ngữ cho người Việt, rồi sau đó, trên Gia Ðịnh báo ngoài Trương Vĩnh Ký làm Chánh Tổng Tài còn có sự cộng tác của Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký đã dùng nó làm phương tiện phổ biến chữ quốc ngữ đến đại chúng.

Trương Vĩnh Ký là nhà thông thái, quảng bác ngữ học nhưng ông hành văn rất giản dị, bình dân, viết cũng y như câu nói. Ðến Huình Tịnh Của và Trương Minh Ký lời văn cũng bình dị nhưng câu văn lại nhẹ nhàng hơn. Tuy Trương Minh Ký ít người biết đến, nhưng ông là người cộng tác gắn bó với Trương Vĩnh Ký trên Gia Ðịnh báo và Thông Loại Khóa Trình, còn Huình Tịnh Của được nhiều người biết đến nhờ quyển Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị của ông.

Các nhà văn tiền phong kể trên rất có công trong việc truyền bá chữ quốc ngữ vào thời kỳ phôi thai, nhờ đó đến đầu thế kỷ thứ hai mươi, văn học quốc ngữ miền Nam cũng tiên phong trong các bộ môn văn học.

Tôn vinh những nhà văn quốc ngữ tiên phong miền Nam như Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký bởi sự nghiệp văn học của họ và nhiệt tâm truyền bá chữ quốc ngữ vào thời buổi sơ khai, đáng cho chúng ta ngưỡng vọng. Và nhờ họ mà Văn học Việt Nam sau nầy phát triển nhanh chóng khắp mọi miền đất nước.


*

Huỳnh Ái Tông

(1) Nhân Loại bộ mới số 4 ngày 15-10-1958 trang 30-32
(2) Chúng tôi để nguyên văn, không sửa chữa chánh tả, xống: sống
(3) Chép theo Petite Dictionnaire Francais-Annamite.
(4) Không ghi năm tháng.
(5) Chép nguyên văn.
(6) Có lẽ thợ nhà in đã bỏ sót mất một đoạn: Từ Thức gặp lại Giáng Hương ở cõi tiên, được tác hợp thành vợ chồng.
(7) Chữ Nôm
(8) Tôn Thọ Tường

(9) nguyễn bá thế, Tôn Thọ Tường, Tân Việt. Sàigòn 1957 trang 29
(10) Bản dịch của nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát.

Trở về Mục Lục