Vài khám phá mới có tính cách Vô Đạo Đức của Khoa Học gia thời nay

 

 

Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch

 

 

ĐỐI THOẠI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Quyển sách này chúng tôi biên dịch theo cuốn “L’infini dans la paume de la main”, c̣n có tựa là “Le moine et l’Astro physician” của hai tác giả Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận.

Matthieu Ricard th́ chúng ta đă biết qua quyển “Đạo sư và Triết gia” c̣n Trịnh Xuân Thuận là nhà vật lư thiên văn người Việt rất được ngưỡng mộ hiện nay trên thế giới. Giáo sư Thuận hiện là giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia Mỹ.

Nên có hay chăng một cuộc đối thoại giữa Khoa học và Phật giáo? Để biết được điều này cần phải xác định rơ ràng hai lănh vực học hỏi của hai luồng tư tưởng khác nhau và thử xem Phật giáo có thể đem lại một đóng góp giá trị nào vào những thiếu sót mà Khoa học chưa giải thích được. Những thiếu sót này đa phần thuộc về đạo đức, sự cải tạo tâm thức con người và về sự khả dĩ đưa con người đến một thành tựu tâm linh thật sự. Phật giáo luôn chú ư đến nhiều vấn đề liên quan đến khoa vật lư đương đại. Khoa vật lư có đem đến cho Phật giáo những đóng góp ǵ trong việc khám phá ra thực tại?

Matthieu: Bạn đă trải qua một cuộc hành tŕnh rất ấn tượng để trở thành một nhà vật lư thiên văn ở Hoa Kỳ. Điều ǵ đă khiến bạn chú ư đến khoa học?

Thuận: Những năm 60 có thể được xem là thời kỳ vàng son của ngành vật lư thiên văn. Ánh sáng hóa thạch (nhiệt năng c̣n sót lại sau Big Bang) và các quasars (các ngôi sao rất sáng ở ngoài b́a vũ trụ có thể phát đi năng lượng bằng cả một thiên hà và có một khối lượng tương đương với Thái dương hệ) vừa mới được khám phá. Khi tôi vừa đến Mỹ, công cuộc khám phá Thái dương hệ bằng các con tàu vũ trụ đang bộc phát nhộn nhịp. Tôi c̣n nhớ sự ngạc nhiên sững sờ trước những h́nh ảnh đầu tiên của sao Hỏa được truyền về trái đất bởi con tàu Mariner trên màn h́nh lớp học của chúng tôi. Những h́nh ảnh về sa mạc cằn cỗi ở sao Hỏa cho nhân loại biết rằng không có đời sống tinh thần ở đó: những kênh đào mà các nhà thiên văn ở thế kỷ 19 tưởng đă nh́n thấy chỉ là những ảo ảnh được tạo nên bởi những băo cát. Giữa sự rộn ràng đó, tôi không thể không trở thành nhà Vật lư thiên văn được. Từ đó, tôi không ngớt quan sát vũ trụ bằng những viễn vọng kính tối tân nhất trên mặt đất hay trên các quỹ đạo trong không gian và suy nghĩ về bản thể của vũ trụ, về nguồn gốc của nó.

C̣n bạn, điều ǵ đă làm bạn không hài ḷng về sự nghiệp khoa học của bạn. Từ bỏ một pḥng thí nghiệm sinh học để đến tu viện Tây Tạng ở Nepal, xét ra cũng là một điều không b́nh thường.

Matthieu: Với tôi, sự việc đă diễn tiến theo một tŕnh tự b́nh thường. Tôi luôn luôn ra sức t́m hiểu về ư nghĩa của cuộc sống. Tôi làm việc này việc nọ, theo đuổi bất cứ cái ǵ làm tôi thích thú trong khi vẫn cố gắng không hoang phí một giây phút nào của đời sống quư giá này. Tôi đă được cái may mắn lớn: sống nhiều năm bên cạnh những nhân vật đặc biệt. Đó là khoảng thời gian tôi có một kinh nghiệm tuy đơn giản nhưng rất sâu sắc mà tôi không thể nào diễn tả được.

Người ta có thể nhận ra một sự hoàn hảo về nhân cách cũng như tâm linh, tuy nhiên ta không thể diễn tả bằng những lời thông thường được như: sự minh triết, kiến thức, ḷng nhân ái, nét quí phái, đơn giản, khắt khe hay chân thật. Tôi nghĩ điều quan trọng nhất cho mỗi người là hoàn toàn để tâm đừng chậm trễ nữa cho điều ta muốn làm trong cuộc sống.

Dù là công việc t́m kiếm khoa học rất hấp dẫn, tôi có cảm giác chỉ đem lại một điểm màu đỏ trong một bức điểm họa mà không biết kết quả sẽ ra sao. Điều này có đáng để tôi dồn hết tâm lực, trong khi c̣n biết bao nhiêu điều khác mà cuộc sống dành cho tôi? Trong khi đó, sự khởi đầu mục tiêu đề ra, phương tiện vận dụng và những trở ngại phải vượt qua trong tôn giáo rất rơ ràng minh bạch, chỉ cần rà soát lại nội tâm là nhận ra: ta thường xuyên vị kỷ (chấp ngă) và sự vị kỷ đó bắt nguồn từ vô minh đă che lấp đi bản thể thật sự của chính ta và của thế giới. Và sự vô minh này là đầu nguồn của sự đau khổ chính ta và người khác, mà công việc cấp bách nhất của con người là phải t́m cách chấm dứt đau khổ.

Phương pháp đi đến đó là phải vun trồng t́nh yêu và ḷng bi mẫn, cắt đứt gốc vô minh bằng cách đi theo con đường giác ngộ mà ta nhận biết qua năm tháng hành tŕ, một sự chuyển hóa nội tâm đem đến niềm vui hiếm có, không c̣n bóng dáng của hy vọng và sợ hăi đồng thời không ngớt nuôi dưỡng ḷng nhiệt thành của tôi.

Thuận: Thế tại sao bạn lại muốn đối thoại với một nhà khoa học?

Matthieu: T́m hiểu bản thể của thực tại là công việc quan trọng nhất của người phật tử và cả của nhà khoa học.

Thuận: Công việc của tôi là luôn luôn tự hỏi về các khái niệm thực tại, vật chất, thời gian và không gian. Mỗi khi tôi phải đối mặt với những khái niệm ấy, tôi không khỏi tự hỏi Phật giáo quan niệm thế nào về vấn đề ấy, thực tại nắm bắt một cách hợp lư có giống như thực tại diễn tả qua thiền định. Hai quan điểm ấy có gặp nhau không, hay trái ngược nhau và không cùng chung một nhận thức? V́ không nghiên cứu các bản văn Phật giáo, tôi không có dữ kiện để đáp ứng những suy nghĩ này.

Matthieu: Có đúng là đằng sau cái vẻ bên ngoài của hiện tượng, có một thực tại sinh động không? Nguồn gốc của thế giới hiện tượng là ǵ? Liên hệ giữa hữu tri và vô tri như thế nào? Thời gian, không gian và các quy luật thiên nhiên có thật sự có hay không? Từ 2500 năm nay có những nhà siêu h́nh Phật giáo, đầy dẫy các tác phẩm luận lư, nhận thức, phân tích thực tại ở các tầng bậc và nhiều điểm luận tâm lư nghiên cứu rất chi tiết về các sự kiện tâm thức và các khía cạnh tinh thần khác.

Thuận: Bạn tŕnh bày Phật giáo như một khoa học tâm linh? Phải chăng là một khoa học giống như mọi khoa học thiên nhiên đặt trên nền tảng quan sát và đo đạc diễn tả theo toán học?

Matthieu: Sự xác thực của một khoa học không nhất thiết phải tùy thuộc vào những đo đạc vật lư hay những phương tŕnh toán học rắc rối. Một giả thiết có thể được kiểm chứng bởi một cuộc trải nghiệm nội tâm mà không mất đi giá trị.

Phương pháp Phật giáo bắt đầu bằng việc phân tích và thường xuyên nhờ đến những kinh nghiệm tư tưởng không thể chối căi được về mặt quan điểm, dù rằng không thể chứng nghiệm trên thực tế được. Đó cũng là cách dùng rất thường trong khoa học.

Thuận: Đúng vậy. Những kinh nghiệm đơn thuần bằng tư tưởng thật ra rất lợi ích cho khoa vật lư. Chúng luôn luôn được Einstein cũng như những nhà vật lư tầm cỡ khác sử dụng, không những để chứng minh những nguyên tắc vật lư, mà c̣n được dùng để làm rơ những kết quả trái ngược trong công việc giải thích một vài t́nh huống vật lư.

Einstein đă tưởng tượng là ông ta đang cởi trên một hạt ánh sáng, c̣n để suy ngẫm về lực hấp dẫn, ông đă h́nh dung đứng trong một thang máy đang rơi tự do trong khoảng không. Tôi nghĩ rằng khoa vật lư đương đại với những khám phá và những vấn đề siêu h́nh không thể tránh được, đă t́m thấy trong Phật giáo cũng như trong các tôn giáo và các triết lư khác những câu trả lời vọng lại bất ngờ. Nhưng tại sao Phật giáo lại chú ư đến khoa học hiện đại đặc biệt khoa vật lư và khoa vật lư thiên văn trong khi nó không mấy thích thú về khoa học kỹ thuật?

Matthieu: Mối bận tâm lớn của Phật giáo không phải là khoa học hiện đại, nhưng nó chú tâm đến, v́ lẽ trong việc t́m hiểu thực tại, nó đă từng đặt ra những câu hỏi tương tự với khoa vật lư đương đại. Những hạt độc lập không thể chia rẽ được có thể dùng như những viên gạch để xây dựng thế giới vĩ mô không? Những hạt này có chăng một bản thể tối hậu hay chúng chỉ là sản phẩm của tinh thần? Những quy luật vật lư tự chúng hiện hữu giống như tư tưởng của Platon không?

Phật giáo xem sự tương thuộc các hiện tượng như là sự diễn tả thích hợp nhất về các hiện tượng. Tuy nhiên quan niệm về sự toàn nguyên có từ thời Niels Bohr và Heisenberg, cha đẻ của vật lư lượng tử phiến diện, đă được trắc nghiệm trong ṿng 20 năm sau này. Quan niệm toàn nguyên này là một khám phá căn bản của nền vật lư đương đại. Không phóng đại về những điểm tương đồng phiến diện, sự t́m hiểu về những khác biệt và những điểm giống nhau giữa khoa học và Phật giáo có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về những khía cạnh đặc biệt trong việc t́m hiểu thế gian. Phật giáo đặt nền tảng trong một cuộc trắc nghiệm trực tiếp chứ không g̣ bó trong các giáo điều. Phật giáo sẵn sàng chấp nhận mọi nhận thức về thực tại có đầy đủ tiêu chuẩn của thực tại thật sự. Đức Phật dặn ḍ các đệ tử hăy tránh xa những luận điệu đ̣i hỏi một niềm tin mù quáng và giáo điều: “Hăy đánh giá những điều ta dạy giống như các ngươi đi t́m vàng trong quặng bằng cách chà xát nó bằng cách đổ, đập vỡ tan nó hay làm nó chảy thành nước. Không nên chấp nhận những lời nói của ta v́ nể trọng ta”. Vậy là không nên tin mà nên hiểu.

Chỉ tích lũy kiến thức thôi th́ không đủ. Thầy tôi, Khyentse Rinpoche nói rằng: “Nếu chúng ta chỉ đi lượm lặt kiến thức để trở nên quyền thế hoặc nổi danh, chúng ta ở trong cùng trạng thái một ca sĩ chỉ biết hát để nhận của bố thí. Kiến thức ấy không ích ǵ cho chúng ta cũng như cho kẻ khác. Một câu tục ngữ đă nói: “Càng biết nhiều, càng kiêu căng”. Làm thế nào ta giúp đỡ kẻ khác trước khi đoạn dứt được tư tưởng tiêu cực trong ta? Nuôi dưỡng một hoài băo ngông cuồng như vậy là một điều nực cười cũng giống như một kẻ ăn mày đi mời cả làng dự tiệc

….

Thuận: Điểm sau cùng này nêu lên một câu hỏi mà tôi cảm thấy khá rắc rối trong lănh vực khoa học. Như bạn đă biết, tôi vào Caltech năm 19 tuổi, khi đó Caltech là đỉnh cao khoa học thế giới. Người ta có thể gặp ở đó những gương mặt lớn trong giới khoa học, giải Nobel hay viện sĩ Hàn lâm Khoa học. Tôi nghĩ rất ngây thơ rằng, với tài năng và óc sáng tạo, họ là những con người ưu việt trên mọi mặt của đời sống. Tôi đă thất vọng năo nề: Ta có thể là một nhà khoa học tầm cỡ, một thiên tài nhưng vẫn là một con người xấu xa trong xă hội đời thường. Sự trái ngược này làm tôi choáng váng. Tôi cứ nghĩ rằng Phật giáo hay các tôn giáo khác có thể bổ sung cho khoa học về mặt đạo đức.

Lịch sử các khoa học đầy rẫy những mẩu truyện về các nhà khoa học lớn, lại tỏ ra rất tầm thường trong các cuộc giao tiếp. Ví dụ như Newton cùng với Einstein đă là các nhà vật lư vĩ đại của mọi thời đại. Newton đă ngự trị như là một bạo chúa trong xă hội hoàng gia Anh quốc, đă nhầm lẫn khi tố cáo Leibniz chiếm đoạt khám phá của ông ta về toán vi tích phân, trong khi chính Leibniz đă tự t́m ra môn toán học này. Tệ hơn là ông ta đă làm nhục John Flamsteed- nhà thiên văn học người Anh. C̣n Philipp Lenard và Johannes Stark đạt hai giải Nobel về vật lư đă ủng hộ phát xít Đức và đường lối chính trị chống Do Thái, cho rằng khoa học Đức vượt trội hơn khoa học Do Thái.

Nhưng thỉnh thoảng, mặc dù rất ít, có người đă kết nối thiên tài khoa học vào đạo đức. Đó là trường hợp của Einstein mà tạp chí Times đă tôn vinh như nhân vật vĩ đại nhất thế kỷ 20. Trong thế chiến thứ I, Einstein trước sự giận dữ của Hoàng đế Đức đă không ngần ngại kư vào một kháng thư chống chiến tranh. Trước làn sóng phát xít Đức, ông trở thành một người Do Thái tích cực ở Đức, và đă nêu lên vấn đề quyền của người Ả Rập trong lănh thổ Do Thái. Di cư sang Mỹ, mặc dù rất yêu chuộng ḥa b́nh, Einstein lại đi cổ vũ cho một hành động quân sự chống Hitler. Đó là bức thư ông viết cho Tổng thống Roosevelt mở đầu cho dự án Manhattan để chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên. Nhưng sau những vụ tàn phá ở Hiroshima và Nagasaki ông lại kêu gọi cấm sử dụng các loại vũ khí hạt nhân. Ông cũng chống lại chủ nghĩa Mccarthy cùng những h́nh thức cuồng tính và phân biệt chủng tộc khác. Nhưng cũng có nhiều bóng đen vô h́nh trong đời sống cá nhân của Einstein. Ông từng là một người cha vô t́nh và một người chồng bay bướm. Ông đă ly dị bà vợ đầu tiên và bỏ bê một đứa con gái suy nhược. Ông đă viết về ḿnh như sau: “Hạng người như tôi khi đến độ tuổi nào đó, tạo nên một bước ngoặt của cuộc đời, th́ họ dần dần từ bỏ những cái ǵ thuộc về cá nhân, để chỉ chú tâm vào việc t́m hiểu tạo vật mà thôi”.

Thuận: Không thể tha thứ được cho những nhà khoa học tự nguyện làm việc sản xuất các công cụ giết người. Trong chiến tranh Việt Nam, tôi đă hết sức bức xúc khi thấy nhiều khoa bảng giải Nobel tham dự vào “nhóm Jason”, một ủy ban do Ngũ giác đài thành lập để nghiên cứu và phát triển vũ khí mới.

Matthieu:

·       Giữa năm 1936 đến 1976, chính phủ Thụy Điển đă vô sinh hóa 60.000 người mà họ cho rằng thuộc cấp thấp hèn.

·       Giữa 1932 đến 1972, 400 công nhân Mỹ ở bang Alabama, tất cả đều da đen và nghèo khổ, được sử dụng để nghiên cứu diễn tiến dài lâu của bệnh giang mai, mà không hay biết họ là những vật thử nghiệm bởi sở y tế công cộng. Người ta hứa cho những bệnh nhân sự săn sóc thuốc men miễn phí và vài quyền lợi nhỏ nhoi khác (như 5000 USD dùng vào việc chôn cất) với điều kiện họ phải thường xuyên đến cơ sở y tế để xét nghiệm– thực sự họ không được chữa chạy ǵ cả. Thật ra chỉ là một cuộc nghiên cứu diễn tiến của bệnh giang mai không chạy chữa do các bác sĩ và các nhà khoa học đáng kính tiến hành và sau đó công bố kết quả trên những tập san y học. 28 bệnh nhân đă chết v́ chứng bịnh, 100 người khác chết v́ những biến chứng thứ phát, 40 người vợ và 19 trẻ sơ sinh lây nhiễm. Việc nghiên cứu bị gián đoạn th́nh ĺnh khi sự việc được phát giác bởi một nhà báo nữ Jean Heller. Không có một nhân viên nào của sở y tế ngỏ lời xin lỗi, không có một bác sĩ nào bị truy tố. Chỉ có một sự đền bù nhỏ được dành cho các nạn nhân và chỉ đến năm 1997 Tổng thống Bill Clinton mới đưa ra lời xin lỗi nhân danh dân tộc Hoa Kỳ.

·       Năm 1978, Bác sĩ Hisato Yoshimura đă nhận được huy chương cao quư nhất của Nhật Bản để tưởng thưởng cho công cuộc nghiên cứu của ông về khoa học “Thích nghi với môi trường”. Trong thế chiến thứ II, bác sĩ Yoshimura là trưởng đơn vị 731 chuyên trách về các cuộc thí nghiệm trên tù binh đồng minh và Trung Quốc. Việc nghiên cứu thích nghi với môi trường của ông là thảy các tù nhân xuống nước băng giá, rồi sau đó đập họ bằng búa để xem đến khi nào các chi của họ bắt đầu đông cứng. Những thí nghiệm khác gồm việc phân phát cho trẻ em Trung Quốc những thỏi chocolate có nhiễm khuẩn bệnh than để xem bao lâu th́ các em đó chết.

·       Việc buôn bán vũ khí là h́nh thức đạo đức giả ghê tởm nhất của các nước giàu. 95% vũ khí toàn cầu được sản xuất và bán ra bởi năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Ở đây, đạo đức và tinh thần trách nhiệm đă hoàn toàn thất bại. Cũng cùng trong một chiều hướng đó, là sự hoang phí tài nguyên của các nước giàu. Chỉ cần 6 tỷ mỹ kim để đảm bảo một nền giáo dục cơ bản cho toàn cầu, nhưng mỗi năm, người ta bỏ ra 12 tỷ để mua nước hoa400 tỷ để tiêu thụ ma túy và 700 tỷ cho các chi tiêu quân sự.

·       Một ví dụ rất thời sự là câu chuyện của công ty dược Glaxo đă dọa đưa các chính phủ Nam Phi và Thái Lan ra ṭa nếu các nước này sản xuất ra 3 loại thuốc dùng để trị bệnh Sida với giá rẻ. Glaxo không muốn cho hàng triệu người có thể sống thêm vài năm nữa. Đây là một loại chối bỏ ḷng nhân đạo một cách tủi hổ và phũ phàng nhất. Tuy nhiên công cuộc chống Sida không thiếu phần tài trợ, và nếu để cho các nước nghèo sản xuất thuốc đặc trị aid đó th́ cũng không thay đổi bao nhiêu doanh số của công ty Glaxo v́ dù sao các bệnh nhân ở Á và Phi Châu cũng không có tiền để mua sản phẩm của Mỹ. Ở Nepal nơi tôi sống, theo các số liệu không chính thức, 5% dân chúng bị nhiễm virus HIV, nhưng có một ai được chữa bằng các thuốc đặc trị?  Các thuốc này không được nhập vào Nepal. Việc chữa chạy bằng các loại thuốc của Glaxo tốn hàng tháng khoảng 3500 quan trong khi lương trung b́nh của một anh công chức là 350 quan. Tôi có thể suy ra sự buồn chán của các nhà khoa học chân chính trước những sự buôn bán năo ḷng đó. Đơn giản là việc không muốn giúp đỡ những người cùng khổ mà thôi.

Thuận: Theo tôi, nhà khoa học không nên đi vào lĩnh vực nghiên cứu trước khi cân nhắc kỹ những hậu quả đạo đức. Những tiêu chuẩn đạo đức ấy phải như thế nào? Tôi nghĩ cũng như bạn, quan trọng hơn cả là ḷng vị tha và tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng mà Phật giáo đă đề cập. Nhà khoa học cần phải làm thế nào để không tạo thêm đau khổ cho nhân loại. Nhưng nói dễ, làm rất khó v́ nhà khoa học không dễ dàng tiên đoán hậu quả công việc của ḿnh. Lấy ví dụ như Einstein, khi khám phá ra sự cân bằng giữa vật chất và năng lượng, ông không hề nghĩ đến việc khám phá đó sẽ đưa đến việc chế tạo ra bom nguyên tử. Một ví dụ khác là sự sinh sản vô tính của chú cừu Dolly. Vấn đề không phải ở chỗ di truyền học hay vật lư nguyên tử, nhưng là việc sử dụng khám phá mới này. Năm 1952, Adlai Stevenson nguyên ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ, đă nói: “Thiên nhiên th́ trung tính. Con người đă chiếm đoạt của thiên nhiên cái quyền năng làm cho cuộc đời nở hoa hay tàn lụi”. Khoa học có thể che chở cũng như hủy diệt đời sống. Mục đích không phải là cấm đoán việc nghiên cứu khoa học, thật ra là bất khả nhưng là để nhấn mạnh tầm quan trọng của khía cạnh đạo đức trong công cuộc t́m kiếm khoa học. V́ thế theo Phật giáo, ḷng vị tha là một trong những khía cạnh quan trọng nhất mà người Phật tử cần phát triển.

 

Nguyễn Đ́nh Hải Sưu tầm