chữ tu trong đạo phật

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Chắc ai cũng hiểu rằng, từ khi mới lọt lòng ra cho đến khi hơi thở cuối cùng, trong đời thường chẳng hưởng được mấy lần vui. Cơn vui vừa thoáng qua, cơn buồn đã kéo đến. Ðã đành sanh, già, đau, chết, là bốn đại hoạn, không ai tránh khỏi, mà những nỗi đói nghèo, áp bức, oán thù, gặp gỡ, ân ái, xa lìa, hoàn cảnh lôi kéo cũng đủ làm cho chúng sanh đau khổ vô cùng. Nước mắt chảy ra ngập tràn cả đại thiên thế giới, mà vẫn còn dâng lên mãi nếu lòng tham lam dục vọng - nơi mỗi cá-nhân cũng như đoàn thể - không được vùi dập phần nào; hành vi xấu xa độc ác, ích kỷ hại người không được san bằng và tiêu diệt do lòng từ bi rộng lớn biết nghĩ đến mình, đến người theo công lý và chính đạo. Chúng ta chỉ ngó ngay vào cảnh tượng ngày nay cũng thấy rõ đó là biển nước mắt đau thương bởi cơn cuồng vọng của loài người gây tạo. Thế nên chúng ta tin chắc ràng tất cả đau khổ chỉ có một con đường ra là mọi người biết nhìn nhau bằng cặp mắt từ bi, hay nói theo một cách khác là mọi người biết tu theo đạo chính đáng giác ngộ.

Xưa nay các bậc thành nhân, các vị đã giác ngộ như chư Phật, Bồ Tát, không vị nào mà không trải qua con đường ấy; cho đến khi dạy người, dạy đời cũng chú trọng ở điều đó. Vậy bất luận người nào ở trong xã-hội cũng cần lấy tu làm gốc, nếu không thì tự mình đã hư hỏng, mình đả làm tổn hại cho mình thì mong giúp ích gì cho ai nữa?

Ðời còn như thế huống chi đạo Phật, một đạo chủ trọng tự-giác giác tha, tự lợi lợi tha hơn cả mà lại không quan tâm tới sự tu sao được. Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm rằng :"Như tuy lịch kiếp, ức tri Như Lai bí mật diệu nghiêm, bất như nhứt nhựt tu vô lậu nghiệp". Ðại ý nói tuy nhiều kiếp học rộng nghe nhiều nhớ hết tất cả pháp môn của hằng sa chư Phật chỉ dạy, chẵng bằng một ngày tu vô lậu xuất thế. Ấy là lời Phật khuyến cáo Tôn giã A-Nan mà cũng là khuyến cáo cái tai hại không tu của chúng ta vậy. Nếu chỉ học mà không tu thì khác nào như người thuộc lòng tấm bản đồ rồi ngồi lỳ một chỗ, chẳng đến đâu được cã.

Thế thì biết tu là một điều cần yếu. Nhưng hiện nay, nhiều người trong hàng Phật Tử chúng ta cũng như một số đông ở ngoài vẫn còn ôm mối nghi ngờ sai lạc. Có người nghĩ rằng tu là một việc làm quá khó, phải xa gia-đình, xã-hội để ép mình trong một khuôn khổ hẹp hòi, bít mắt bưng tai trước mọi hoàn cảnh, vứt bỏ bao nhiêu ước mong khoái lạc mà tu hành uỷ mị, hàng ngày nghĩ tưởng đến việc gì xa xăm huyền ảo, ỷ lại thần quyền để cầu mong tương lai trường sanh, bất tử, hay hưởng quả phúc đời đời. Tu như vậy phỏng có ích lỡi gì cho ai? Gỉa sử tu như vậy mà thành thánh, thành thần, hưởng quả phúc thì lối tu ấy cũng chỉ thích hợp với hạng người thiếu nghị lực, hạng ông lão bà già!

Hạng người thứ hai thì trái laị, họ nghĩ rằng tu là một việc rất hay, là nền tảng cho nhân tâm thuần hậu, cho hòa bình an lạc, vững bền; song khi nào hòa bình đã lan khắp, sinh hoạt được dễ dàng mới có thì giờ mới có thì giờ nghĩ đến việc tu dưỡng. chứ nhằm lúc đao binh loạn lạc, đói khát tung hoành, chính là lúc phải ra sức dẹp loạn an dân, nỗ lực làm lụng để vãn hồi sự no ấm, đợi bao giờ tâm thần ổn định mới lo đến chuyện tu. Những điều nghi hoặc đối với sự tu vẫn còn nhiều nữa, song tóm lại cũng không ngoài hai điều vừa kể trên. Cũng vì nghĩ như vậy, mà bây giờ hễ nghe nói đến chữ tu thì người ta đã tưởng tượng ngay một hình dáng yếu hèn, một việc làm quá lạc hậu, không phải thời.

Xét kỹ thì hai lối tưởng đó nhièu phần không đúng, song không sai mấy đối với hạng người mệnh danh là tu, mà kỳ thật áp dụng lắm điều không chính đáng! Nếu bây giờ muốn bổ cứu những khuyết điểm trên đây để đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho khỏi phụ lòng tin Phật của chúng ta, thì tưởng cũng nên cùng nhau tìm hiểu rõ chữ "Tu" trong đạo Phật, trước để tránh khỏi cái nạn xưng càn một khi mình không tu chi cả, sau để khỏi bị e ngại bởi những lời mỉa mai nông cạn có thể làm trở ngại bước đường tu tập chính đáng của chúng ta. Lẽ dĩ-nhiên là ở đây chúng ta chĩ hiểu chữ "Tu" trong đạo Phật, chú ngoài lối tu của đạo Phật ra, trên xã-hội này còn bao nhiêu lối tu khác; mà tiếc vì phạm vi bài này không cho phép chúng tôi đem ra bàn cãi, chĩ có thể nói đại-khái rằng các lối tu ấy đều chưa diệt tận nguồn gốc thống khỗ, nên chưa phải là phương pháp đưa người đến chỗ giải thoát an vui chơn thật.

Thế nào là nghĩa chữ "Tu" trong đạo Phật? Ðịnh-nghĩa một cách tóm tắt thì tu nghĩa là sửa. Xấu xa sửa lại cho tốt đẹp, tà vạy sửa lại cho chính đáng, độc ác sửa lại cho hiền lành, mê mờ sửa lại cho sáng suốt ... Như người ta thường nói ngọc có dũa mài mới thành đồ hữu dụng, người có học tập mới trở nên người hay, ấy đều là cắt nghĩa chữ "tu" vậy. Có nhiều người hay nói :"Phật tức Tâm,Tâm tức Phật, tôi chĩ tu cái tâm cũng đủ" Mới nghe qua tưởng như hợp lý, song xét kỹ thì đó chỉ là câu nói bướng bỉnh để chối từ việc tu hành mà thôi. Nêu thử hỏi lại Tâm vì sao phải tu và tu bằng cách nào, thì ít ai trả lời được. Thậm chí có người khi đã biết đạo cũng như khi chưa biết đạo, cứ giữ nguyên tánh xấu xa cố cựu, không chút gì đổi mới hay ho!

Ðã đành rằng :"Tâm tức Phật" nhưng hiện nay còn làm chúng sanh thì quyết chắc tâm của ta còn mê lầm, vọng tưởng, ích kỷ, biếng lười, chưa được như tâm Phật: sáng suốt, chân thật, rộng rãi, từ bi. Ðứng về phương diện lý tánh bình đẳng thì tâm ta không khác chi tâm Phật, nhưng đứng về phương diện tự tướng sai biệt thì ta và Phật hai đàng mê-ngộ, khổ-vui khác nhau như trời và vực, không thể nói suông mà mong được giải thoát. Trái lại cần phãi thành-thật cố-gắng kiểm-điểm lại mình, nghiệm xét nơi mình, để thấy rõ cái gì xấu xa, cái gì tà vạy, cái gì độc ác, cái gì mê lầm mà lần lần sửa đổi tu hành cho đến khi hoàn toàn viên mãn. Trong lúc tu hành ấy, hễ sửa được bao nhiêu điều hư quấy, tức là diệt được bấy nhiêu nguyên nhân thống khổ. Sự khổ sẽ tách dần ra mà sự an vui lần hồi phát hiện, bao giờ hoàn toàn thanh tịnh ấy là chứng đủ bốn đức Thường. Lạc, Ngã, Tịnh không bị điều chi làm hệ luỵ. Cho nên kinh có câu :"Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai". Như Lai hay Phật là vị đã chuyển được mọi vật, bên trong không bị tánh tình ô nhiễm làm mờ tối, và bên ngoài không bị hoàn cảnh sắc, thanh, danh, lợi, quyến rũ chi phối. Tự mình làm chủ mình, làm chủ hoàn cảnh.

Nếu bây giờ chúng ta muốn được an vui, thì phải tự chủ; mà muốn được tự chủ thì cần nương theo Phật pháp để sửa đỗi hành vi, tánh tình, quan niệm hẹp hòi sai lạc đã lâu đời lâu kiếp bám chắc nơi chúng ta. Sửa đổi hành vi tức là sửa đổi những điều độc ác của hành động và lời nói. Thân thường hay sát hại, trộm cắp, dâm ô; miệng thường hay nói dối, dèm pha, nịnh hót .v.v ấy là hành vi có hại mà ít ai tránh khỏi. Nếu chúng nó được bồi đắp, lan rộng ra hoài thì nhân loại chúng sanh càng bị xô mau đến chỗ tiêu diệt. Hãy xem như một nghiệp sát, mấy năm lại đây không nơi nào là không do nghiệp sát gio họa gớm ghê, làm cho sự sống, một điều mật thiết quan trọng hơn cả của mọi vật, không có chút gì bảo đảm. Ðã bao giờ như ngày nay, toàn nhân loại chỉ sống trong hồi hộp lo âu, nom nớp sợ hãi khi thấy mạng mình nhẹ hơn cát bụi bên vệ đường, không phút nào yên tâm với bàn tay tàn nhẫn của nghiệp sát đang hung hăng chực chờ dọa nạt. Vậy là chưa kể đến tai nạn các hành vi trộm cướp, nói dối v.v.cũng gieo họa ghê gớm không kém.

Nếu ai nấy cũng nhận chân sâu sắc các hành vi ác độc kể trên là nguyên nhân trực tiếp gây nên đau khổ giữa người và mình - vì gieo nhân sát hại thì hoặc cách này hay cách khác cũng phải gặt lấy kết quả bị sát hại; để sửa đổi tu hành diệt dần đi mới mong có ngày sống an toàn trong hòa vui thân mật được. Ðã sửa đổi hành vi cũng phải sửa đổi tánh tình, vì tánh tình xấu xa mới thật là nguy hại nhiều hơn. Tham lam sân hận si mê, kiêu mạn, nghi ngờ là những tâm tánh xấu xa cố cựu của chúng sinh.

Vẫn biết đã có thân thì ai lại không tham muốn sống còn, nhưng lắm người vì chất chứa lòng tham vô đáy, điều gì hay ho đều muốn thu góp về phần mình, chỉ muốn đời sống của mình được vinh quang sung sướng đầy đủ, quý trọng hơn hết thảy mọi người, nên dù việc gì đe hèn hay độc ác mà hễ đưa lại lợi lộc về mình thì không hề đoái nghĩ! Thậm chí xem tiền tài, danh vọng hơn trăm, ngàn, ức, triệu tánh mạng sanh linh đồng loại chỉ vì tham chút lợi danh mà làm cho đời sống nhân loại bị điêu đứng. Niệm tham lam vô hình mà tai hại không phải là it, ở gia-đình có một kẻ tham - tham ăn chẳng hạn - thì sự sống của gia-đình mất hòa thuận; đến giữa xã-hội, nếu lòng tham nảy nở mạnh mẽ ở đâu thì ở đáy không sao tránh khỏi cảnh tình xô xát thảm mục thương tâm; vì đã tham tất nhiên có sân, đã sân thì tất nhiên tranh dành xâu xé ..

Than ôi! Một tánh tham đã làm cho ai nấy cháy ruột nung gan, huống còn thêm bao nhiêu tánh xấu xa khác nữa. Song, muốn sửa đổi tâm tánh xấu xa một cách dễ dàng đến tận gốc thì đồng thời phải sửa đổi quan niệm hẹp hòi ích kỷ.

Tất cả sự vật đều sanh sanh, hóa hóa trên một bản thể chung cùng hòa hợp, không có sự vật nào dược tồn tãi ra ngoài bản thể chung cùng ấy. Chính chúng ta cũng phải nhờ sưr liên quan hỗ trợ của tát cả mà có ra. Vậy mà chúng sanh mê mờ, tự phân biệt, tưởng tượng chấp riêng một cái ta, xây ranh giới mà chắn riêng giữa mình và mọi người, mọi vật; luôn luôn đặt cái Ta ra trước, lên trên, lấy cái Ta làm định chuẩn cho mọi hành động, nói năng suy nghĩ. Bởi vậy nên thường bị hẹp hòi, sai lầm, khổ sở. Suy rộng ra nào vinh nào nhục, nào thị, nào phi, không có gì là tuyệt đối. Cái vinh của người này là cái nhục của người kia, cái vinh của người kia là cái nhục của người này. Ở đời cũng lắm chuyện để cho ta thấy rõ trường đời là nơi đấu tranh nhỏ hẹp ở trong sự phê phán xây nắn của cái Ta hẹp hòi giả dối. Vậy cần phải mở mang trí tuệ thật rộng rãi, phá lần quan niệm sai lầm chấp có bản ngã mới thấy đời rất rộng rãi để khoan hòa với mọi loài mọi vât.

Như vừa nói ở trên, đó là sửa đổi hành vi hung ác, sửa đổi tánh tình xấu xa, sửa đổi quan niệm chấp có cái Ta hẹp hòi, ấy là nói về ngăn ngừa cái xấu, diệt trừ cái xấu, đừng để cho nó đâm chồi mọc thành nhánh ra hoài. Tu như vậy có thể cho là lối tu tiêu cực, trái lại tích cực hơn là phát huy cái tốt, khuyếch trương cái tốt, làm cho cái tốt càng ngày càng rộng rãi lớn lao. Hiện tiền nơi chúng ta không những có rất nhiều diều tà vạy ô nhiễm, mà cũng có rât nhiều điều hay, cần nên bồi đắp, tu dưỡng như bố thí, nhẩn nại, khoan hòa, sáng suốt, bình đẳng, xét ra chẳng ai không có, nếu biết cố gắng vun bồi thì không việc lợi ích gì mà chúng ta không làm được.

Tóm lại, hai phương diện tu hành trên, một đáng lo diệt trừ cái tánh hại người hại mình, một đáng lo phát huy, cái tánh lợi mình lợi người. Ðã nhận thấy lòng tham lam có hại mà lo diệt bớt lòng tham là tu, diệt trừ lòng giận là tu, diệt trừ lòng kiêu mạn, ích kỷ là tu. Trái lại, nhận thấy bố thí là hay, chăm làm bố thí là tu, từ-bi cứu vật là tu, khoan hòa rộng rãi là tu. Cho đến bất luận hành động gì tốt đẹp, có nhiều lợi ích cho người mà cố gắng quên mình để thực hành theo cũng đều gọi là tu cả. Tu như vậy đâu có phải là hẹp hòi hay nhu nhược, tu như vậy đâu phải là việc riêng của một nhóm người nào hay của một thời đại nào. Chỉ vì có nhiêù người chưa hiểu chữ "Tu" có một phạm vi rộng rãi đó, nên tưởng rằng tu là việc chuyên môn của người tu sĩ, của kẻ chán đời, ẩn dật, hay của hạng môn đồ đạo này hoặc đạo khác mà thôi, nogài ra không liên quan với đại đa số ngưòi còn đang lăn lộn, chống chọi, hoạt động sống với đời sống không xa thực tế hơn. Ôi đâu biết rằng cái quan niệm sai lầm ấy không khác nào cái quan niệm của mấy người tưởng phép vệ-sinh là phạm vi chuyên môn của mấy ông thấy thuớc, hay của mấy người đã mác bệnh truyền nhiễm.

Ðành rằng phương diện điều trị thân xác có nhiều điều ngóc ngách khó khăn mà thầy thuốc phải gia công tầm cứu, phải cho mình mỗt hoàn cảnh sạch sẽ hợp vệ-sinh hơn, nhưng trong hạng người không phải là thầy thuốc mà không cần biết vệ-sinh, tự do ăn nhớp ở nhúa thì không chỉ tai hại cho mình, còn lây sang mọi người chung quanh, khiến họ phải sống chung trong một cảnh ngộ nguy hiểm. Phương diện trị thân xác đã vậy, thì phương diện cải tạo tinh thần không kém chi. Muốn diệt biết bao nhiêu tâm niệm xấu xa còn lại, và phát huy tất cả tâm niệm tốt đẹpp rộng rãi thêm lên lại càng rất khó, nếu không phải là người có quyết tâm với mục đích ấy, nếu không có một hoàn cảnh thuận tiện cho sự tu hành thì khó mong kết quả hoàn toàn. Bởi vậy, trong đạo Phật, các vị tăng gìa, các hàng tu sĩ phải xuất gia để bớt ngoại duyên phiền nhiễu, phải ở nơi nhàn tịch mới thấy rõ nguồn gốc sâu xa của tội lỗi mà gột rửa tiêu trừ. Nhưng nếu hiểu thêm rằng không phải chỉ mấy vị ấy mới tu được, mấy vị ấy mới cần tu, mà tất cả các hạng người ở vào địa vị nào trong thới loạn cũng như thời bình, đều có thể tu, đều cần nên tu cã; nếu không tu tức là tự do để cho thói tham lam, bóc lột, ích kỷ hại người đứng lên làm chủ, gây tai ương không bờ không bến.

Vậy ta có nên xem chuyện tu là việc ngoài phận sự của mình không? Ta có thê không nhận rõ nghĩa chữ "Tu" được không? Hãy nên nhận chân cho rõ, xem đó là một phương châm của đời sống ngay thật mà không trao đưa cho ai cã, chỉ tự mình gắng thực hành lấy và khuyên lơn người khác biết mà thực hành để cùng nhau xây dựng nên một cảnh sống yên vui bền vững, tạo cảnh Cực-Lạc giữa Ta-Bà này. Nếu được như vậy tức là đã hiểu và đã thực-hành đúng nghĩa chữ "Tu" trong Ðạo Phật.

(Trí Ðức Văn Lục I)

Trở về Mục Lục