Đến Hàn San Tự để t́m hiểu bài thơ
Phong kiều dạ bạc
của Trương Kế
Nguyễn Quảng Tuân
Trong chuyến đi Trung Quốc vừa qua, chúng tôi đă
có dịp tới thành phố Tô Châu, nơi có ngôi chùa Hàn San nổi tiếng. Ngôi chùa này được xây dựng từ thời Nam Triều (đầu thế kỷ thứ VI) và đă được đặt tên là Diệu Lợi tự. Về sau chùa được gọi là Phong Kiều tự v́ ở gần cầu Phong Kiều. Đến đời nhà Đường v́ có hai thiền sư là Hàn San và Thập Đắc đến trụ tŕ ở đó nên chùa lại được đổi tên là Hàn San tự.Chùa từ thời đ
ó đến nay đă trải qua nhiều lần trùng tu nên không c̣n giữ được kiến trúc ban đầu nữa.Nếu so với các ngôi chùa khác ở Trung Quốc th́ chùa Hàn San không có ǵ đáng kể về mặt kiến trúc nhưng lại rất nổi tiếng nhờ có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.
Nguyên văn bài
thơ ấy được truyền tụng như sau:Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
và đă được khắc vào bia để ở trong chùa.
Bài thơ chỉ có bốn câu với 28 chữ nhưng đă gây
ra khá nhiều vấn đề tranh luận.Câu 1:
Có người cho rằng câu 1 phải đọc như sau:
Nguyệt lạc Ô Đề sương măn thiên
Và phải hiểu là:
Trăng lặn ở núi Ô Đề (1), trời đầy sương.
"Ô Đề" như vậy không c̣
n là tiếng quạ kêu mà đă trở thành một sơn danh v́ người ta cho rằng ban đêm không làm ǵ có tiếng quạ kêu. Nhưng cách hiểu này đă không được ai theo v́ các con quạ vẫn có thể bất thường kêu về ban đêm.Trong thơ văn Trung Quốc, Lư Bạch đă
có bài thơ Ô dạ đề và Kim thị trong bài Tự thuật cũng đă có câu: "Không pḥng dạ dạ văn đề ô" (Đêm đêm nghe thấy tiếng quạ kêu ngoài pḥng vắng vẻ).Trong văn thơ Việt Nam, Quách Tấn cũng có bài Đê
m thu nghe quạ kêu và ông đă liên tưởng đến bến Phong Kiều trong bài thơ của Trương Kế và đă viết:Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng.
Câu 2:
Câu này cũng bị đặt thành vấn đề.
Nguyên do vào đời Thanh có Mao Tiên Thư cho rằng: "Ở Tô Châu đối diện với chùa Hàn San có núi Sầu Miên nên câu 'Giang phong ngư hỏa đối sầu miên' không thể hiểu là cây phong bên bờ sông và ánh đèn thuyền chài lấp
lánh trước mặt khách (tác giả) đă làm cho khách xa nhà nhớ quê không sao ngủ được."Ư kiến này đă bị Trương Duy Minh, tác giả quyển Hàn San tự (2) bác bỏ v́ cho rằng bài thơ chỉ có bốn câu, ba câu đă tả cảnh rồi th́ câu "Giang phong ngư hỏa đối sầu miên" phải là câu tả t́nh mới đúng.
Điều nà
y cũng hợp lư. Chính v́ lẽ ấy mà tất cả các quyển Đường thi tam bách thủ chú giải và Thiên gia thi chú giải đều giảng "sầu miên" là "ưu sần bất đắc thành niên". Chỉ có một quyển Hội đồ Thiên gia thi của Chung Bá Kính chú giải đă giảng "sầu miên" là sơn danh như Mao Tiên Thư đă chủ trương.Chúng tôi cho rằng cả hai nhà chú giải ấy đều chưa có dịp về tới chùa Hàn San cũng như mấy họa sĩ người Trung Quốc đă minh họa bài Phong Kiều dạ bạc mà cứ vẽ cầu Phong Kiều và chùa Hàn San ở bên ngọn núi.
Có thể v́ tên chùa Hàn San có chữ "san" là núi nên các vị ấy mới nhầm lẫn như vậy.
Chúng tôi khi về tận chùa Hàn San, đứng ở bến Phong Kiều bên Đại Vận hà, nh́n quanh bốn phía đều không thấy có ngọn núi nào ở gần, chỉ nghe nói ở tận xa, xa không nh́n thấy được, mới có núi Linh Nham sơn, Thiên B́nh sơn, Thiên Địa sơn, Sư Tử sơn, Hoành Sơn, Hà Sơn...
Thế th́ Trương Kế, nằm trong khoang thuyền mà có nh́n ra ngoài cũng chỉ thấy có những cây phong và những ngọn đèn chài, chứ làm sao có thể đối
mặt được với "ngọn núi Sầu Miên", một ngọn núi không có thực ở bên chùa.Để minh chứng cho điều sai lầm, chúng ta có thể xem bức ảnh chụp bến Phong Kiều với mấy chiếc thuyền đậu ở bê
n cầu, cửa Thiết Linh quan và ngọn tháp Phổ Minh ở phía sau chùa Hàn San.Câu 3-4:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Hai câu này cũng gây thắc mắc cho người đọc v́ vào lúc nửa đêm làm ǵ có tiếng chuông chùa.
Vấn đề nà
y cũng có nhiều ư kiến khác nhau.Ấu Dương Tu th́ cho rằng: "Thi nhân tham cầu hảo cú nhi lư bất thông giả, diệc ngữ bệnh dă" (Nhà thơ v́ muốn đặt câu cho hay nên lư không đ
ược thông, đó là một ngữ bệnh vậy).Sô Nghiêu trong quyển Đ
ường thi tam bách thủ độc bản th́ cho rằng: "Hậu nhân dĩ vi dạ bán vô chung thanh tương cấu bệnh, vị miễn xuy mao cầu t́". (Người đời sau lấy cớ nửa đêm không có tiếng chuông và cho là một ngữ bệnh, như thế th́ chưa tránh khỏi cái thói bới lông t́m vết.)Diệp Thiếu Uẩn trong Thạch lâm thi thoại lại cho rằng: "Cái công vị thường chí Ngộ trung(3), kim Ngô t
rung tự thực bán dạ đả chung." (V́ ông không thường tới Ngô trung chứ hiện nay chùa ở đó vào lúc nửa đêm có đánh chuông thật.)Chúng tôi cho rằng về ban đê
m, ở các chùa thường không có đánh chuông nhưng cũng có những trường hợp cúng lễ bất thường nên "dạ bán chung thanh"cũng không phải là vô lư.Chính v́ lẽ đó mà các nhà thơ từ đ
ời Tống trở về sau mỗi lần qua bến Phong Kiều đều nhớ đến Trương Kế với cảnh "nguyệt lạc", "ô đề" và "dạ bán chung thanh."Nhà thơ Lục Du đời Tống trong bài Túc Phong Kiều đă viết:
Thất niên bất đáo Phong Kiều tự
Khách chẩm y nhiên bán dạ chung.(Bảy năm không tới thăm lại chùa Phong Kiều,
Nằm gối đầu ngủ lại ở đất khách nghe tiếng chuông chùa đánh lúc nửa đêm thấy vẫn y như cũ).
Nhà thơ Tôn Đ
ịch cũng đời Tống trong bài Phong Kiều đă viết:Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự,
Ỷ chẩm do văn bán dạ chung.(Quạ kêu, trăng lặn, cầu ở bên chùa,
Nằm gối đầu ngủ c̣n nghe thấy tiếng chuông nửa đêm.)
Nhà thơ Cố Trọng Anh đời Nguyên trong bài Bạc Xương môn đă viết:
Tây phong chỉ tại Hàn San tự,
Trường tống chung thanh giảo khách miên.(Chỉ tại chùa Hàn San mà gió tây
Đưa xa tiếng chuông tới quấy động giấc ngủ của khách.)
Nhà thơ Cao Khải đời Minh trong bài Phong Kiều đă viết:
Kỷ độ kinh qua ức Trương Kế,
Ô đề nguyệt lạc hựu chung thanh.(Mấy lần qua Phong Kiều đều nhớ Trương Kế,
Quạ kêu, trăng lặn với tiếng chuông nửa đêm.)
Nhà thơ Vă
n Trưng Minh đời Minh trong bài Phong Kiều đă viết:Thủy minh nhân tĩnh Giang thành cô,
Y nhiên lạc nguyệt đề sương ô.(Nước trong, ḷng tĩnh, Giang thành vắng,
Trăng lặn, quạ kêu trong sương vẫn y như cũ.)
Qua các câu thơ ấy, chúng ta thấy các nhà thơ xưa ở Trung Quốc cũng đều nhắc lại cảnh "quạ kêu", "trăng lặn" và "tiếng chuông nửa đêm" như là những sự việc rất b́nh thường, không có ǵ đáng thắc mắc cả.
Nguyễn Hàm Ninh x
ưa, ở nước ta, cũng đă hiểu như vậy nên đă dịch bài thơ của Trương Kế sang thể lục bát như sau:Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Bài thơ dịch này, trước đây
người ta đă nhầm là của Tản Đà, được kể là hay, chỉ tiếc là ông đă bỏ mất chữ giang phong và đă nhầm bến Phong Kiều là bến Cô Tô và cũng chưa diễn đạt được vai tṛ chủ thể của tiếng chuông chùa Hàn San nhưng nó vẫn được kể là bài dịch hay nhất từ trước đến nay.Vậy để kết luận cho bà
i viết này, chúng tôi thấy cần phải đến tận chùa Hàn San để t́m hiểu cho được chính xác bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, nếu không sẽ có những nhầm lẫn đáng tiếc trong việc chú thích và minh họa như đă nói ở trên.Nguyễn Quảng Tuân
Chú thích:
(1) Có người cho là thôn
Ô Đề
(2) Hàn San tự: sách do Trương Duy Minh biên soạn, Cổ
Ngô Hiên xuất bản xă in năm 1993 ở Tô Châu.
(3) Ngô trung: tên cũ của thành phố Tô Châu.
(4) Hội đồ Thiên gia thi:
Nhật Tân thư trang xuất bản, không
đề