Lương Vơ Đế

Phật Tâm Thiên Tử

(463-549)

*

Khi nói đến Phật Giáo Trung Quốc, hầu hết người ta đều biết đến Lương Vơ Đế bởi v́ ông là vị vua thâm tín Phật Giáo vào bậc nhất trong Lịch đại hoàng đế Trung quốc, tên tuổi ông c̣n gắn liền với Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Sơ Tổ của Thiền Tông Trung Quốc, chẳng những thế mà c̣n gắn liền với kinh Lương Hoàng Sám. Cho nên t́m hiểu về Lương Vơ Đế là điều cần thiết.

Lương Vơ Đế tên thật là Tiêu Diễn, làm quan Thứ sử đất Ung Châu, thời đại Nam Bắc Triều, là một người tài đức nên đến năm 502, được vua Tề Ḥa Đế nhường ngôi, ông lên làm vua lập nhà Lương lấy niên hiệu là Thiên Giám.

Hồi c̣n làm Thứ sử Ung châu, phu nhân của ông họ Hy, người rất ghen tương và độc ác, v́ một chuyện bà không hài ḷng nên nhảy xuống giếng tự tử, do làm những việc ác nên đầu thai làm măng xà, theo quấy nhiễu cung phi của vua Lương Vơ Đế. Một hôm nhà vua được Hy thị báo mộng là do tánh ác độc trước kia, nên đă tái sanh kiếp rắn thường hay quấy phá trong cung, xin nhà vua hăy thương t́nh lập đàn tràng, cầu siêu độ để được giải nghiệp.

Vua thỉnh ngài Thích Bảo Chí soạn bài văn Sám hối, và lập đàn tràng nhờ chư tăng tụng bài văn sám hối ấy, sau đó nhà vua nằm mộng thấy phu nhân họ Hy đến yết kiến vua, mặc xiêm y rực rỡ, đẹp lạ thường, bà cám ơn nhà vua đă cho lập đàn tràn, nay được giải nghiệp thoát khỏi xác rắn, rồi từ giả vua, bà là tiên nên bay về thiên giới.

Kinh ấy ngày nay vẫn c̣n lưu truyền, có tên là Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp hay cũng c̣n gọi là Lương Hoàng Sám.

Từ trước, vua theo Đạo giáo và Nho giáo, đến năm Thiên Giám thứ ba (504) vào dịp lễ Phật Đản mồng 8 tháng 4 vua đă cử hành đại lễ Xả Đạo Phụng Phật tại Trùng Vân Điện, đó là ngày lễ vua Lương Vơ Đế quy y Tam bảo, nhà vua cũng ra lệnh cho các quan bỏ Đạo giáo để quy y Phật giáo. Đến năm Thiên Giám thứ 10 (511) vua soạn ra bài văn Đoạn Tửu Nhục (bỏ ăn thịt, uống rượu), quyết tâm tu hành. Đến năm Thiên Giám thứ 16 (517), vua hạ sắc lệnh cấm dân chúng không được giết hại súc vật để cúng quỷ thần, và thay vào đó nên cúng hoa quả. Đến năm Thiên Giám thứ 18 (519) vào dịp lễ Phật Đản, vua Thọ Bồ Tát Giới nơi Ngài Tuệ Ước tại chùa Thảo Đường, làm cho công khanh sĩ thứ theo gương ngài thụ giới đến hàng chục ngàn người. Vua c̣n ra lệnh dựng chùa Đồng Thái, Đại Ái Kính và nhiều chùa lớn nhỏ ở khắp nơi.

Đến năm 520, Lương Vơ Đế đổi niên hiệu là Phổ Thông, vào ngày 21 tháng 9 năm nầy tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ theo thuyền buôn đến Quảng Châu, Thích sử tỉnh nầy được tin nên tiếp đón ngài, rồi dâng sớ về triều tâu lên Lương Vơ Đế, vua được tin liền sai sứ đến thỉnh ngài về kinh đô Kim Lăng để vua hội kiến.

Khi hội kiến, Lương Vơ Đế hỏi tổ Bồ Đề Đạt Ma :

Tổ đáp :

Vua Lương Vơ Đế không lănh ngộ được, lui về cung nghỉ. Tổ biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại thêm ít hôm. Đến ngày 19 tháng 10 năm ấy, không chào từ giả vua, nữa đêm Tổ sang sông qua Giang Bắc, nhập nước Ngụy đến Lạc Dương ngày 23 tháng 11.

Vua cũng mở rất nhiều pháp hội và trai đàn như Vô Giá Đại Hội, B́nh Đẳng Pháp Hội, Cứu Khổ Trai Đàn, Đại Pháp Hội ...

Lương Vơ Đế ngoài việc triều chính ra c̣n nghiên cứu kinh điển và có chú sớ bộ Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Tư Chú Kinh (50 quyển). Ông cũng có chú giải bộ Đạo Đức Kinh của Lăo tử.

Niên hiệu Đại Thông thứ 8 ( 527), vua bỏ ngôi vào chùa tu, các quan phải đến chùa yêu cầu ngài ra đảm trách việc nước.

Niên hiệu Đại Thông thứ 10 (529), vua lại bỏ ngôi vào chùa tu, các đ́nh thần lại phải yêu cầu ngài trở về giữ việc triều chính.

Niên hiệu Trung Đại Thông thứ 5 (533), vua khai giảng kinh ‘’ Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật ‘’ tại chùa Đồng Thái, có 698 các quan văn vơ đến nghe cùng với tăng, ni, sĩ, thứ có đến hàng ngàn người, sứ thần của nước Vu Điền và Ba Tư cũng đến dự.

Niên hiệu Trung Đại Thông thứ 10 (538), có sứ đưa Xá Lợi Phật đến Trung Quốc, ngài cho lập chùa xây tháp thờ, xuất kho bố thí và ân xá tội nhân.

Niên hiệu Trung Đại Thông thứ 19 (547), vua lại một lần nữa vào chùa tu, các đ́nh thần phải xuất kho, mang tiền đến chùa chuộc ngài trở về triều, đảm trách việc nước.

Sau vua Lương Vơ Đế bị bề tôi là Hầu Cảnh làm phản, đem quân lính bao vây kinh đô, các quan yêu cầu xuất quân đánh trả, nhưng một ông vua nhân từ, bao nở thấy cảnh chiến tranh, ông chỉ lo thủ thành, Lương Vơ Đế mất vào năm 549.

Kẻ ngoại đạo lấy đó cho đạo Phật là yếm thế, v́ theo Phật Giáo mà Lương Vơ Đế để cho họa nước mất sau nầy. Sau khi Lương Vơ Đế mất, các vua nhà Lương c̣n trị v́ đến năm 555 mới mất về nhà Trần.

Lương Vơ Đế làm vua 48 năm, thọ 86 tuổi, 45 năm quy y đầu Phật, chẳng những thâm tín mà c̣n thông hiểu giáo lư đạo Phật, ông đă một đời hoằng dương chánh pháp như độ tăng, cất chùa, xây tháp, giảng kinh, chú sớ, từ bỏ ngai vàng, tránh cuộc chiến tranh. Người hiểu đạo, mới thấy ông là bậc bồ tát hiện thân, cho nên ông được người đương thời xưng tán là Phật tâm thiên tử.

Chính Hạnh

2-2-2001

Sánh tham khảo :

Đoàn Trung C̣n, Phật Học Từ Điển
Thích Thanh Kiểm, Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh, Sàig̣n, 1965
Thích Thanh Từ , Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa, Tu viện Chân Không, Việt Nam, 1972
Đào Duy Anh, Trung Hoa Sử Cương, Nhà Xuất Bản Bốn Phương tái bản, Việt Nam

( * ) Trở về Mục Lục