Cung Oán Ngâm Khúc
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều
Trải
vách quế
gió vàng hiu-hắt,
Mảnh
vũ-y lạnh ngắt
như đồng;
Oán chi những khách
tiêu-phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào !
Duyên đã may cớ sao lại rủi ?
Nghĩ nguồn-cơn dở-dói sao đang ?
Vì đâu nên nỗi dở-dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình !
Trộm nhớ thủa gây hình
tạo-hóa,
Vẻ phù-dung một
đóa khoe tươi ;
Nhuỵ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu-dung.
Áng Đào Kiển đâm
bông não chúng
Khoé thu-ba dợn
sóng khuynh thành
;
Bóng gươm lấp-loáng dưới mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình
mây mưa !
Chìm đáy nước
cá lờ-đờ lặn,
Lửng da trời,
nhạn ngẩn-ngơ sa
!
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga
giật mình.
Câu cẩm-tú đàn
anh
họ Lý
Nét
đan-thanh bậc chị
chàng Vương
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh,
Đế Thích là làng
tri-âm.
Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm
Tư-mã
Địch lầu thu, đọ gã
Tiêu-lang
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên-tiên cũng ngảnh Nghê-thường trong trăng.
Tài-sắc đã vang-lừng trong nước,
Bướm-ong càng xao-xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã
nổi lên đùng đùng.
Hoa xuân nọ còn phong nộn nhụy,
Nguyệt thu kia, chưa hé hàn-quang,
Hồng-lâu còn khóa then sương,
Thâm-khuê còn giấm mùi hương
khuynh thành.
Làng cung-kiếm rấp-ranh
bắn sẻ,
Khách công-hầu gấm-ghé
mong sao
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.
Gan chẳng đá khôn đường há
chuyển
Mặt phàm kia dễ đến
Thiên-thai ?
Hương trời sá động trần-ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười
một khi.
Ngẫm nhân-sự cớ chi ra thế ?
Sợi xích-thằng
chi để vương chân
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn
rảy nguội dần lửa duyên.
Kìa thế-cục như in giấc mộng.
Máy huyền-vi mở đóng khôn lường !
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền-định
khá thương, lọ là.
Đòi những kẻ thiên-ma bách-chiết
Hình thì còn, bụng chết đòi nau !
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra !
Khóc vì nỗi thiết-tha sự thế,
Ai bày trò
bãi bể nương dâu
?
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần ?
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng-thông như đốt buồng gan,
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da !
Gót danh-lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong-trần nắng nám mùi dâu,
Nghĩ thân phù-thế mà đau,
Bọt trong
bể khổ, bèo đầu
bến mê.
Mùi tục-vị lưỡi tê tân-khổ,
Đương thế-đồ gót rỗ khi-khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp-nhô,
Chiếc thuyền
bào ảnh lô-xô
gập-ghềnh.
Trẻ tạo-hóa
đành-hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn
mà chơi !
Lò cừ nung nấu sự
đời,
Bức tranh
vân-cẩu vẽ người
tang-thương.
Đền vũ-tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca-lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp trông gai,
Ai đem nhân-ảnh nhuốm mùi tà-dương ?
Mùi phú-quí nhử làng xa-mã,
Bả vinh-hoa lừa gã công-khanh,
Giấc Nam-kha khéo
bất tình
Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không !
Sân đào-lý giâm
lồng man-mác
Nền đỉnh-chung
nguyệt gác mơ-màng
Cái phong-ba khéo cợt phường lợi danh.
Quyền họa-phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện-nghi chẳng trả phần ai !
Cái quay búng sẵn
trên trời,
Mờ-mờ nhân-ảnh như người đi đêm.
Hình mộc-thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm-ngư ủ vũ ê phong,
Tiêu-điều nhân-sự đã xong,
Sơn-hà cũng huyễn, côn-trùng cũng hư.
Cầu
Thệ-thủy ngồi trơ
cổ-độ
Quán Thu-phong
đứng rũ tà-huy
Phong-trần đến cả sơn khê,
Tang-thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng huyễn-hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù-sinh trông thấy mà đau !
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cổ-khâu xanh rì !
Mùi tục-lụy dường kia cay-đắng,
Vui chi mà đeo-đẳng trần-duyên ?
Cái gương nhân-sự chiền-chiền,
Liệu thân này với cơ-thiền phải nao.
Thà mượn thú tiêu-dao cửa Phật,
Mối
thất tình quyết
dứt cho xong
Đa-mang chi nữa đèo-bòng ?
Vui gì thế-sự, mà mong nhân-tình !
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn
hoa đàm
đuốc tuệ làm
duyên
Thoát trần một gót thiên-nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Ý cũng rắp ra ngoài
đào-chú,
Quyết lộn vòng phu-phụ cho cam !
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào !
Hẳn túc-trái làm sao đây tá ?
Hay
tiền-nhân hậu-quả
xưa kia ?
Hay Thiên-cung có điều gì ?
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
Kìa điểu-thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo-bòng,
Có âm-dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên-địa cũng vòng phu-thê.
Đường tác-hợp trời kia giong-ruổi,
Lọt làm sao cho khỏi nhân-tình,
Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh
Tay
Nguyệt-lão khờ
sao có một,
Bỗng tơ-tình vướng gót
cung-phi
Cái đêm hôm ấy, đêm gì ?
Bóng Dương lồng
bóng
Đồ-my trập-trùng.
Khoa
thược-dược
mơ-mòng
thụy-vũ,
Đóa
hải-đường thức
ngủ
xuân tiêu
Cành xuân hoa chúm-chím chào,
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Xiêm nghê nọ
tả-tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp-ló
trong trăng,
Sanh-ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng
điện Tô.
Đệm hồng-thúy
thơm-tho
mùi xạ
Bóng
bội-hoàn lấp-ló
trăng thanh
Mây-mưa mấy giọt
chung tình.
Đình Trầm-hương
khóa một cành mẫu-đơn.
Tiếng thánh-thót cung đàn
thuý-dịch.
Giọng nỉ-non ngón địch
đan-trì,
Càng đàn, càng địch, càng mê,
Càng gay-gắt điệu, càng tê-tái lòng !
Mày ngài lẫn
mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân-duyên.
Hoa thơm muôn đội ơn trên.
Cam công mang tiếng thuyền-quyên với đời.
Trên chín bệ
mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng
sớm trực trưa chầu
Phải duyên
hương-lửa cùng
nhau
Xe dê lọ rắc lá
dâu mới vào.
Khi
ấp mận ôm đào gác
nguyệt,
Lúc
cười sương cợt tuyết
đền phong,
Đóa lê ngon mắt
cửu-trùng
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng
cũng xiêu
Vẻ
vưu vật trăm
chiều chải-chuốt
Lòng quân-vương chi chút
trên tay
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ, thành này
muốn long !
Vườn Tây-uyển
khúc trùng Thanh-dạ,
Gác Lâm-xuân điệu ngã
Đình hoa.
Thừa ân một giấc
canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lập-lòa vẻ
son.
Trên trướng gấm
Chí-tôn vòi vọi,
Những khi nào gần-gũi quân-vương
Dẫu mà ai có nghìn vàng,
Đố ai mua được
một tràng mộng xuân
.
Thôi cười nọ lại nhăn
mày liễu,
Ghẹo hoa kia, lại nhíu
gót xen,
Thân này uốn éo vì duyên,
Cũng cam một tiếng thuyền-quyên với người !
Lan mấy đóa
lạc-loài sơn-dã,
Uổng
mùi hương vương-giả
lắm thay !
Gẫm như
cân-trất duyên
này,
Cam công
đặt cái khăn này
tắc-ơ !
Tranh
tỹ-dực nhìn ưa
chim nọ,
Đồ liên-chi lần
trỏ hoa kia,
Chữ đồng lấy đó
mà ghi,
Mượn điều
thất-tịch mà thề
bách niên.
Hạt mưa đã lọt miền đài-các,
Những mừng thầm
cá nước duyên may
Càng lâu, càng lắm mùi hay,
Cho cam công kẻ
nhúng tay thùng chàm
Ai ngờ bỗng một năm một nhạt,
Nguồn cơn kia chẳng tát mà vơi !
Thôi-di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người
vị vong
Đuốc vương-gỉa chí công là thế
Chẳng soi cho đến khoé
âm-nhai!
Muôn hồng nghìn tía
đua tươi,
Chúa xuân nhìn
hái một hai bông gần.
Vốn đã biết cái thân
câu trõ
Cá no mồi cũng khó nhử lên,
Ngán thay
cái én ba nghìn,
Một cây
Cù-mộc biết chen
cành nào ?
Song đã cậy má đào chon-chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại
giâm !
Trong
cung quế âm-thầm
chiếc bóng
Đêm năm canh trông-ngóng lần lần,
Khoảnh làm chi, bấy chúa xuân !
Chơi hoa cho
rữa nhụy dần lại
thôi !
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ-vũ
Gác thừa-lương thức ngủ thu-phong,
Phòng tiêu lạnh
ngắt như đồng
Gương loan bẻ
nửa,
giải đồng xẻ đôi,
Chiều ủ-dột
giấc mai trưa sớm
Vẻ bâng khuâng
hồn bướm vẩn-vơ
Thâm-khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.
Ngấn
phượng-liễn chòm
rêu lỗ-chỗ,
Dấu
dương-xa đám cỏ
quanh-co
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết
đóng,
chăn cù gía đông.
Ngày sáu khắc tin mong
nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền
Lạnh lùng thay giấc cô-miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u.
Tranh biếng ngắm trong đồ
Tố-nữ,
Mặt buồn trông trên cửa
Nghiêm-lâu.
Một mình đứng tủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa !
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn-ngơ
Hoa này bướm nỡ thờ-ơ !
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng.
Đêm năm canh lần nương
vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau
Giết nhau bằng cái
Lưu-cầu,
Giết nhau bằng cái ưu-sầu, độc chưa ?
Tay Nguyệt-lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở-dang không ?
Đang tay muốn dứt tơ-hồng,
Bực mình muốn đạp
tiêu-phòng mà ra.
Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái,
Đóa hồng đào hái buổi còn xanh
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối Du-tiên hãy rành rành, song song.
Bây giờ đã ra lòng rẻ-rúng
Để thân này cỏ úng tơ mành,
Đông-quân sao
khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt bực mình
hoài xuân.
Nào lúc tựa
lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thủa đương tơ
Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh
xuân-y hãy sờ sờ
dấu phong.
Bây giờ đã ra lòng ruồng-rẫy,
Để thân này
nước chảy hoa trôi
!
Hóa công sao khéo trêu người ?
Bóng đèn tà nguyệt nhử mùi ký-sinh.
Cảnh
hoa lạc nguyệt minh
dường ấy,
Lửa
hoàng-hôn như
cháy tấm son
Hoàng-hôn thôi lại hôn-hoàng,
Nguyệt-hoa thôi lại thêm buồn nguyệt-hoa !
Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng ?
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn ?
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.
Khi trận gió lung-lay
cành bích,
Nghe rì-rào tiếng mách ngoài xa,
Mơ-hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương-hả mà hơ áo tàn.
Ai ngờ tiếng dế ran ri-rỉ,
Giọng
bi thu gọi kẻ
cô phòng
Vắng tanh nào thấy
vân-mồng
Hơi
thê-lương lạnh
ngắt song
phi-huỳnh
Khi
bóng thỏ
chênh-vênh trước nóc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai
Dè chừng nghĩ tiếng
tiểu đòi,
Nghiêng bình phấn mốc, mà giồi má nheo.
Ai ngờ tiếng
quyên kêu ra rả
Điệu
thương xuân khóc
ả
sương-khuê
Lạnh-lùng nào thấy ủ-ê,
Khí bi-thương sực nức, hè lạc hoa.
Tiếng
thúy-điện cười
già ra gắt
Mùi
quyền-môn thắm
rất nên phai !
Nghĩ nên tiếng
cửa quyền ôi
Thì thong-thả vậy, cũng thôi một đời !
Ví sớm biết lòng trời đeo-đẳng,
Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh !
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót
gieo cành biết
sao ?
Miếng
cao-lương
phong-lưu nhưng lợm
Mùi
hoắc-lê thanh-đạm
mà ngon.
Cùng nhau một giấc
hoành-môn
Lau-nhau ríu-rít
cò con cũng tình.
Mình có biết phận mình ra thế,
Giải-kiết điều
oé-ọe làm chi
Thà rằng cục kịch nhà quê,
Dẫu lòng nũng-nịu nguyệt kia hoa này !
Chiều tịch-mịch đã gầy
bóng thỏ
Vẻ
tiêu tao lại võ
hoa đèn
Muốn đem ca-tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.
Ngọn
tâm-hỏa đốt rầu
nét liễu
Giọt
hồng-băng thấm ráo
làn son
Dơ buồn đến thú cỏn con,
Trà chuyên nước nhất, hương
dồn khói đôi.
Trong
gang tấc mặt trời
xa mấy !
Phận hẩm-hiu nhường ấy vì đâu ?
Sinh-ly đòi rất thời
Ngâu
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.
Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm-năm chực phận buồng không!
Khéo vô duyên với cửu-trùng !
Thắm nào nhuộm lại tơ-hồng cho tươi ?
Vườn Thượng-uyển
hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong ?
Doành Nhâm một
giải nông-nông,
Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này.
Tình rầu-rĩ khôn khuây nhĩ-mục
Chốn phòng không như giục
mây-mưa
Giấc chiêm-bao những đêm xưa,
Giọt mưa
cửu-hạn còn mơ
đến rày.
Trên
chín bệ có hay
chăng nhẽ ?
Khách
quần-thoa mà để
lạnh-lùng !
Thù nhau chi, hỡi
đông-phong ?
Góc vườn dãi nắng cầm bông
hoa đào.
Tay
Tạo-hóa cớ sao mà
độc,
Buộc người vào
Kim-ốc mà chơi.
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài, kẻo căm !
Nơi lạnh-lẽo, nơi xem gần-gặn,
Há phai son nhạt phấn ru mà !
Trêu ngươi chi bấy
trăng già ?
Sao cho chỉ thắm mà ra
tơ mành ?
Lòng ngán-ngẩm buồn-tênh mọi nỗi,
Khúc sầu-tràng bối rối dường tơ,
Ngọn đèn
phòng động đêm
xưa
Chòm hoa tịnh-đế
trơ-trơ chưa tàn
Mà lượng thánh đa-đoan kíp mấy,
Bỗng ra lòng rún-rẩy vì đâu ?
Bõ-già tỏ nỗi xưa
sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu
ngự cùng ?
Đem phong-vũ lạnh-lùng có một,
Giọt ba-tiêu thánh-thót cầm canh,
Bên tường thấp-thoáng bóng huỳnh,
Vách sương nghi- ngút, đèn xanh lờ-mờ.
Mắt chưa nhắp,
đồng-hồ đã cạn,
Cảnh tiêu điều ngao-ngán dường bao !
Buồn này mới gọi buồn sao ?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình !
Bóng câu thoáng
bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi sao xong !
Phòng khi động đến
cửu-trùng
Giữ sao cho được
má hồng như xưa.
HẾT