Long Thành cầm giả ca
Nguyên tác: Nguyễn Du
龍城琴者歌
小引
龍城琴者。不知姓氏。聞其幼年從學撥阮琴於黎宮花嬪部中。西山兵起。舊樂死散。其人流落市廛。挾技以遨。屬散部。所彈皆御前供奉曲。非外人所聞。 遂稱一時絕技。余少時。探兄抵京。旅宿鑑湖店。其傍西山諸臣大集女樂。名姬不下數十。其人獨以阮琴聲擅場。頗能歌。作俳諧語。一坐盡顚倒。數賞以大白。輒 盡。纏頭無算。金帛委積滿地。余時匿身暗中。不甚明白。後見之兄處。短身闊臉。額凸面凹。不甚麗。肌白而體豐。善修飾。淡眉濃粉。衣以紅翠綃裳。綽綽然有 餘韻。性善飲。喜浪謔。眼矐矐。眶中無一人。在兄家每飲輒盡醉。嘔吐狼藉。臥地上。同輩非之。不恤也。後數載。余從家南歸。不到龍城若十年矣。今春將奉命 北使。道經龍城。諸公辱餞于宣撫衙。畢召在城女樂。少姬數十。並不識名面。迭起歌舞。繼聞琴聲清越。迥異時曲。心異之。視其人。顏瘦神枯。面黑。色如鬼。 衣服並粗布。敗灰色。多白補。默坐席末。不言亦不笑。其狀殆不堪者。不復知爲誰何。惟於琴聲中似曾相識。側然于心。席散。質之樂人。即其人也。嗟乎。是人 何至此耶。俯仰徘徊。不勝今昔之感。人生百年。榮辱哀樂其可量耶。別後。一路上。深有感焉。因歌以托興。
阮攸 (北行雜錄)
龍城佳人
姓氏不記清
獨善阮琴
舉城之人以琴名
學得先朝宮中供奉曲
自是天上人間第一聲
余憶少年曾一見
鑑湖湖邊夜開宴
此時三七正芳年
紅妝奄曖桃花面
酡顏憨態最宜人
歷亂五聲隨手變
緩如疏風渡松林
清如雙鶴鳴在陰
烈如薦福碑頭碎霹靂
哀如莊舃病中爲越吟
聽者靡靡不知倦
便是中和大內音
西山諸臣滿座盡傾倒
徹夜追歡不知飽
左拋右擲爭纏頭
泥土金錢殊草草
豪華意氣凌王侯
五陵少年不足道
幷將三十六宮春
活做長安無價寶
此席回頭二十年
西山敗後余南遷
咫尺龍城不復見
何況城中歌舞筵
宣撫使君爲余重買笑
席中歌妓皆年少
席末一人髮半花
顏瘦神枯形略小
狼藉殘眉不飾妝
誰知就是當時城中第一妙
舊曲聲聲暗淚垂
耳中靜聽心中悲
猛然億起二十年前事
鑑湖席中曾見之
城郭推移人事改
幾處桑田變蒼海
西山基業盡消亡
歌舞空遺一人在
瞬息百年能幾時
傷心往事淚沾衣
南河歸來頭盡白
怪底佳人顏色衰
雙眼瞪瞪 空想像
可憐對面不相知
- Phiên âm -
Long Thành cầm giả ca
Tiểu dẫnLong Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn ḱ ấu niên ṭng học bát Nguyễn cầm (1) ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, ḱ nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ (3) điếm. Ḱ bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Ḱ nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích măn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ư dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lăng hước, nhăn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dă. Hậu sổ tải, Dư ṭng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ (9) nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quưnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị ḱ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, ḱ trạng đăi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức ḱ nhân dă. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm.
Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, ḱ khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.
Nguyễn Du (Bắc Hành Tạp Lục)
Long Thành giai nhân
Tính thị bất kí thanh
Độc thiện Nguyễn cầm (1)
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến
Ḱ th́ tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoăn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
Tiện thị Trung Ḥa (6) đại nội âm
Tây Sơn chư thần măn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri băo
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ư khí lăng vương hầu
Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo
Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng măi tiếu
Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô h́nh lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mănh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Ki xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỉ th́
Thương tâm văng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhăn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri
Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành
Tiểu dẫn
Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là ǵ không rơ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.
Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rơ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tṛng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa băi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.
Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Ḷng tôi kinh dị. Nh́n người gảy đàn, th́ thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm ĺ ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, h́nh trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn th́ dường như có quen, nên động ḷng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm th́ ra là người trước kia đă gặp.
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, ḷng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng :
Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ
Riêng thạo đàn Nguyễn
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
Tôi nhớ lúc thiếu thời đă gặp một lần
Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc,
Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi,
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Ḥa.
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
Mải vui suốt đêm không biết chán.
Bên tả bên hữu tranh nhau văi thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ư khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể.
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân,
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đă hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ v́ tôi bày cuộc mua cười,
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đă hoa râm.
Mặt gầy thần khô h́nh bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
Tai lắng nghe mà ḷng chua xót!
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
Đă từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
Thành quách suy dời, việc người đổi,
Bao nương dâu đă biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát c̣n sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!
(Quách Tấn dịch xuôi)
Chú thích:
(1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là v́ đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế.
(2) Tiền Triều: Triều nhà Lê. V́ lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Giám hồ: Hồ Hoàn Kiếm.
(4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học tṛ nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học tṛ rập một ngh́n bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học tṛ vừa đến nơi th́ bia bị trời đánh vỡ tan.
(5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh năng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt.
(6) Đại nội Trung Ḥa: Cung nhà Lê.
(7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quư thường tụ hội.
(8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ.
(9) Quan Tuyên Phủ: Quan Trấn thủ.
- Bản dịch thơ của Lê Văn Đặng -
Thành Thăng Long nhớ từ thửa nọ
Bậc giai nhân tên họ ai hay
Đàn cầm thánh thoát mấy dây
Khắp thành quen miệng gọi ngay Nàng Cầm
“Cung Phụng khúc” xưa ngâm trong Nội
Phổ nên chương tiếng nổi một thời
Nhớ ngày đương độ vui chơi
Giám Hồ yến tiệc gặp người tài hoa
Tuổi hăm mốt nơn nà lộng lẫy
Gió xuân êm hây hẩy bông đào
Men tô duyên năo nùng sao
Nỉ non năm tiếng thấp cao tuyệt vời
Theo tay ngọc ḷng người ủ rũ
Tiếng bổng trầm to nhỏ miên man
Khoan như gió lướt thông ngàn
Trong như tiếng hạc lạc đàn kêu sương
Mạnh như sấm phũ phàng xé đá
Tiến Phúc bia nổ phá ầm ầm
Buồn như khúc Việt ai ngâm
Nỗi ḷng Trang Tích âm thầm mà đau
Điệu êm ấm nghe lâu chẳng mỏi
Chính khúc này Đại Nội triều xưa
Tây Sơn quân tướng thẫn thờ
Ngả nghiêng đến sáng c̣n chưa thỏa ḷng
Quăng lụa thưởng tây đông tíu tít
Vàng tựa bùn cứ việc vung tay
Công hầu hào khí đua say
Ngũ lăng niên thiếu một bày sá chi
Dạo khúc xuân diễm kỳ lả lướt
Băm sáu cung thánh thót xinh xinh
Tràng An treo ngọc liên thành
Phẩm cao vô giá, tài t́nh riêng ai
Thoảng hai chục năm trời từ đấy
Tây Sơn thua, ta trẩy Nam Hà
Long Thành gang tấc c̣n xa
Điệu xưa nhớ mấy cũng là đành thôi
Tuyên phủ sứ lại mời dự tiệc
Thiếu chi người mày biếc má hồng
Cuối bàn phảng phất năo nùng
Một nàng đầu tóc h́nh dung bơ phờ
Ḿnh gầy vơ mày thưa duyên nhạt
Ai biết nàng oanh liệt xưa kia
Khúc đâu lệ chảy đầm đ́a
Khiến người nghe những đê mê xót thầm
Chợt nhớ lại bao năm chuyện cũ
Từng bên ai vui thú Hồ xưa
Thành tàn duyên cũng xác xơ
Ngậm ngùi mấy cuộc biển mờ dâu xanh
Rồi một sớm bại thành là thế
Cảm khúc ca Trời để một người
Trăm năm một thoáng bao dài
Ngậm ngùi chuyện cũ cho đời buồn đau
Ở Nam về, mái đầu đă bạc
Người đẹp xưa cũng khác h́nh xưa
Giương đôi mắt ngó mà mơ
Thảm thay ai biết bây giờ là ai.
- Bản dịch thơ của Đặng Thế Kiệt -
Người đẹp đất Long Thành
Tên họ chi ta không biết rơ
Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm
Khúc kia Cung Phụng nhất trần
Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua
Đă một lần thuở xưa gặp gỡ
Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang
Tuổi hai mươi mốt cô nàng
Mặt hoa áo thắm c̣n tham rượu nồng
Theo ngón tay năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió mát rừng thông
Hạc kêu cao thẳm: tiếng trong
Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ
Buồn: Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt
Người nghe say chẳng biết mỏi a
Khúc đâu đại nội Trung Ḥa
Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên
Mải vui suốt cả đêm không chán
Hai bên người tranh cạnh thưởng tài,
Tiền như bùn đất văi rơi.
Đào hoa ư khí vượt nơi vương hầu
Đám Ngũ Lăng c̣n đâu đáng kể
Băm sáu cung xuân để mà coi
Đúc chung vật báu trên đời
Của kia vô giá đất trời Trường An
Nay đă hai mươi năm tiệc ấy
Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam
Long Thành chẳng thấy tấc gang
Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa
Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát
Đám ca cơ tươi mát xuân xanh
Mà sao một mái hoa râm
Mặt gầy khô héo nhỏ thân h́nh hài
Không điểm tô nét mày phờ phạc
Ai biết từng đệ nhất tài danh
Khúc xưa réo rắt dây đàn
Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh
Tai lắng nghe mà đành chua xót
Hai mươi năm chuyện trước là đây
Bên hồ chiếu tiệc mê say
Đă từng gặp gỡ những ngày thơ ngây
Thành quách suy việc thay người đổi
Bao nương dâu thành băi biển xanh
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành
Trong làng múa hát c̣n đành một ai
Một cuộc thế không đầy chớp mắt
Cảm việc xưa lệ ướt áo này
Từ Nam về tóc trắng mây
Trách chi người đẹp tàn phai má đào
Trừng trừng hai mắt nh́n nhau
Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng
- Bản dịch thơ của Trần Nhất Lang -
BÀI CA NGƯỜI GẨY ĐÀN ĐẤT LONG THÀNH
Gái Long Thành (1) không hay tên họ
Giỏi Nguyễn cầm lấy đó đặt tên (2)
Tiếng đàn như nhạc cơi tiên
Khúc Cung phụng ấy của tiền triều xưa.
Nhớ thuở trước Giám Hồ yến tiệc
Tóc ta xanh đă biết tiếng nàng
Ngây thơ đôi tám mơ màng
Áo hồng, má đỏ lại càng dễ thương!
Tay nhẹ lướt năm cung trầm bổng
Tiếng khoan như gió thoảng ngàn thông
Trong như tiếng hạc trên không
Mạnh như tiếng sét đánh tung bia chùa; (3)
Buồn như thể Trang xưa ngâm Việt (4)
Khiến người nghe mải miết say sưa
Vốn là khúc nhạc ngày xưa
Trung Ḥa Đại Nội để vua thưởng nhàn.
Khi quân lính Tây Sơn tiệc mở
Đă say như điếu đổ thâu canh
Thưởng tiền, tả hữu đua tranh
Bạc vung như nước cốt giành cuộc vui;
Nét hào hoa vương hầu nào sánh
Trẻ Ngũ Lăng có thấm vào đâu (5)
Vẻ xuân hun đúc hạt châu
Cầm ca chi bảo đứng đầu Trường An.
Từ năm ấy đă tṛn hai chục
Tây Sơn tàn, ta được vào Nam
Long Thành lâu chửa ghé thăm
Người xưa múa hát thấy thầm trong mơ.
Quan Tuyên Phủ v́ ta khoản đăi
Trong tiệc này có giải ca vui
Đào nương xuân nữ đương thời
Duy nơi cuối chiếu một người hoa râm,
Mặt vàng vơ, tấm thân bé nhỏ
Môi không son, mày bỏ không tô
Ai hay người ấy bây giờ
Tài hoa đệ nhất ngày xưa một thời!
Khúc cũ dạo, lệ rơi từng giọt
Tai lắng nghe mà xót ḷng ta
Bỗng dưng nhớ chuyện đă qua
Hai mươi năm trước Giám Hồ gặp nhau.
Cuộc hưng phế, bể dâu mấy độ
Thành đổi dời, người có khác chi
Tây Sơn triều cũ c̣n ǵ?
C̣n chăng là một ca nhi tên Cầm!
Cơi nhân thế trăm năm là mấy
Cảm chuyện xưa áo tẩy ḍng châu
Từ Nam trở lại, bạc đầu
Trách sao nhan sắc người đâu chẳng tàn.
Gặp nhau không dám hỏi han
Rưng rưng đôi mắt bàng hoàng xót xa.
Chú Thích:
(1)Long Thành: Thành Thăng Long cũ, nay là Hà Nội
(2)Nguyễn cầm: Đàn nguyệt do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra.
(3)Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu tỉnh Giang Tô có khắc bài thơ chữ rất đẹp, bị sét đánh vỡ tan.
(4)Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt.
(5)Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm vua đời Hán, lớp hào hoa phú quí thường làm nhà ở đây và đám thanh niên sài tiền bạc rất rộng răi.
-- Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn --
Người Gảy Đàn Ở Thăng Long
Nổi danh mỹ nữ Long Thành
Người từ đâu đến, phương danh chẳng tường
Tiếng đồn đàn Nguyễn khắp phương
Tên cô nào biết, gọi thương Nàng Cầm
Khúc xưa “Cung Phụng” nhập tâm
Khảy người nghe ngỡ lạc lầm cơi tiên
Khi xưa tôi đă hữu duyên
Gặp nơi hồ Giám tiệc đêm một lần
Nàng vừa hai mốt tuổi xuân
Mặt xinh như mộng trong thân áo hồng
Hây hây da thấm men nồng
Tay nàng dạo phím, khách ḷng ngẩn ngơ
Tưởng thông giỡn gió vi vu
Ngỡ âm tiên hạc vọng từ ngàn xa
Ầm ầm đá tảng vỡ ra
Tiếng buồn Trương Tích ngâm nga Việt lời
Âm càng trói buộc chân người
Khi nàng dạo khúc xưa nơi Trung Ḥa
Tây Sơn quan tướng say sưa
Ngả nghiêng thụ hưởng vui đùa thâu đêm
Chung quanh đua thảy bạc tiền
Tặng nàng thưởng ngón đàn tiên tuyệt vời
Vương hầu nhường vẻ ăn chơi
Ngũ Lăng công tử kém ṇi hào hoa
Trong cung xuân thắm mượt mà
Đâu thua báu vật giữa ṭa Trường An
Hai mươi năm bụi thời gian
Tây Sơn mất nghiệp, trời Nam t́m vào
Long Thành chẳng thấy được nào
Nói chi đến chuyện lao xao ca đàn
Hôm nay giữa chốn yến bàn
Quan truyền ca múa bao nàng thắm xinh
Duy người ngồi góc một ḿnh
Tấm thân nhỏ bé, tóc xanh úa mầu
Không son phấn, mặt u sầu
Ai nào ngờ đưọc từ lâu danh tài
Khúc xưa khiến dạ bùi ngùi
Càng nghe càng thấy rối bời ruột gan
Đă hai mươi độ thu tàn
Thuở bên hồ Giám nghe đàn nàng rung
Thành rời, người cũ tứ tung
Cuộc đời dâu biển chẳng ngừng đổi thay
Nghiệp Tây Sơn đă xa bay
C̣n chăng sót lại người này mà thôi
Cuộc trăm năm tủi phận người
Áo nâng thấm lệ buồn rơi chán chường
Ta giờ đầu bạc như sương
Trách sao nàng chẳng sắc hương phai tàn
Mắt đăm đăm giữa không gian
Gặp nhau mà lạ ... ta, nàng dửng dưng