Nhớ Về ... Trường Kỷ Thuật
Nguyễn Phan

 

H́nh chụp vào khoảng năm 1964-1965 với tất cả nhân viên, giáo sư Truờng KT Ng-T-Tộ
(tác giả đứng cuối cùng bên tay phải)

Cầm Sự Vụ Lệnh trên tay, tôi đi dọc theo hành lang trường để từ giả một số bạn bè thân trước khi về Sài G̣n nhận nhiêm vụ. Có người nào đó đập mạnh lên vai tôi với lời đùa cợt quen thuộc cùng với câu hỏi:

- Mầy dám về đây ở cái trường "Dao Búa" .. đó à ? Nhưng tao cũng mừng là mầy được về gần "mặt trời" để có thể học hỏi mà tiến thân !

Tôi mĩm cười quay lại trả lời với một chút tự hào đầy vẻ tự tin

- Tao là thầy dạy tụi "dao búa" đó th́ không c̣n sợ ai ăn hiếp hết !

Ngày đầu tiên tôi nhận nhiệm sở mới là ngày 10 tháng 10 năm 1962. Sau hồi kẻng tập hợp, gần 200 học sinh mặc đồng phục chỉnh tề toàn màu xanh nước biển(blue), tóc hớt ngắn gọn gàng đă nhanh nhẹn đứng theo từng lớp rất ngay hàng thẳng lối như "nhà binh" xếp hàng vậy. Tôi hướng dẫn các em của một Đệ Lục (lớp 7 sau này) lên pḥng học để giảng bài Việt Văn đầu tiên: Ngày Khai Trường của Thanh Tịnh "Hôm nay là ngày cuối thu, khi lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc ....... "Tôi say mê giăng bài văn theo ư thích của ḿnh, có em ngồi há hóc miệng , có em lim dim nh́n ông thầy không nói một tiếng nào, lớp học im phăng phắc không một tiếng động .... Tôi tự nghĩ: "Vậy mà thiên hạ lại gán cho tiếng 'dao búa' mới oan cho những học tṛ dễ thương của tôi quá".

Từ đó tôi gần các em hơn, các em cặm cụi học hết lư thuyết ở lớp vói các môn phổ thông, khệ nệ mang bảng vẽ sang pḥng Kỹ Nghệ Họa, rồi lầm lũi mang đồ nghề xuống để thực tập. Một tuần cac em phải quần quật ít nhất là 40 giờ .... C̣n sức đâu mà quậy để mang tiếng là học sinh của trường "dao búa". Những mỹ từ ... dao búa vẫn đeo đẳng theo với học sinh Kỷ Thuật cho măi đến tận bây giờ. Do đó, nhân danh là một trong những người từng gần gũi với các anh chị em Kỹ Thuật, tôi muốn giới thiệu ngành Giáo Dục của các Trường Trung Học Kỹ Thuật ở Miền Nam Việt Nam vào những năm trước năm 1975.

MỤC ĐÍCH ĐÀO TẠO VÀ CHƯƠNG TR̀NH GIẢNG DẠY

Trước ngày 30/04/1975, song song với hệ thống giáo dục phổ thông, Bộ Quốc Gia Giáo Dục và Nha Kỹ Thuật Học Vụ đă cho xây dựng và thành lập rất nhiều trường Kỹ Thuật ở hầu hết các thành phố và tỉnh lỵ về phía nam vĩ tuyến 17 nhằm mục đích huấn luyện và đào tạo các chuyên viên có tay nghề chuyên môn cao, hầu đáp ứng nhu cầu của các nhà máy Công Kỹ Nghệ cũng như Quốc Pḥng đang phát triển của Miền Nam lúc bấy giờ.

Lúc mới thành lập chương tŕnh giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Kể từ niên khóa 1955-1956 tiếng Việt được dần dần dùng trong việc giảng dạy từ cấp lớp Đệ Thất,(Lớp 6 sau này) sau đó tiếng Việt được dùng hoàn toàn cho việc giảng dạy cho tất cả các môn học ở mỗi cấp lớp. Chương tŕnh giảng dạy gồm các môn Phổ Thông và Thực Hành, tổng quát có thể tŕnh bày vắn tắt như sau:

Các môn Kỹ Thuật như Nguội, Tiện Phay, Bào (Ban Máy Dụng Cụ hay Chế Tạo Máy), Máy Nổ 2 th́(2 periods internalnal combustion engine 'Hút Ép, Nổ Giản') Máy Nổ 4 th́ (4 periods internal combustion engine 'Hút, Ép, Nổ, Giản'), Máy dầu (Diesel), Máy dầu cặn Mazut (Ban Động Cơ),Điện Mô-tơ (Moteur), Điện Nhà (Điện dân dụng), Điện Tử (Elevtronícs, Transistors)(Ban Điện), Cưa, Xẽ, Bào Gỗ, Các loại mọng và cách ráp mọng, đóng bàn, ghế, giường tủ (Ban Kỹ Nghệ Gỗ), G̣, Rèn, Hàn (Ban Kỹ Nghệ Sắt). Hội Họa,Nấu Ăn, May Thêu, Đan Lát Tre, Mây, Điêu Khắc, Sơn Mài, Cẩn Xà Cừ ...Môn Kỹ Nghệ Họa hay c̣n gọi là môn Vẽ Kỹ Thuật (Design Industial) là môn Kỹ Thuật Học của các nghề nêu trên.

Đặc biệt chỉ riêng hai Trường Trung Học Kỹ Thuật Qui Nhơn và Trường Kỹ Thuật Vĩnh Long và Trường Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ có dạy các môn Kế Toán, Đánh Máy Chữ, Thương Măi Thực Hành (Plan 1957 của Pháp giống như Trường Quốc Gia Thương Măi của Bách Khoa Trung Cấp Phú Thọ).

Ngoài phần học về lư thuyết và thực hành của các ngành nghề chuyên môn đang theo học tất cả học sinh Kỹ Thuật c̣n phải học hầu hết các môn Phổ Thông như Toán, Vật Lư, Hóa Học, Việt Văn,Triết Học, Lịch Sữ, Địa Lư, Công Dân Giáo Dục, Anh Văn, Pháp Văn, Mỹ Thuật Họa, Vệ Sinh An Toàn, Thể Dục Thể Thao. Cắc môn Phổ Thông thường có giờ học ít hơn, tuy nhiên so với chương tŕnh Tú Tài Kỹ Thuật (Ban Toán) th́ các môn Toán, Vật Lư, Hóa Học rất nặng có khi c̣n nặng hơn Ban "B" của chương tŕnh của các Trường Trung Học Phổ Thông. Về phân Thực Hành, học sinh được thực tập ở các phân xưởng được chia thành như sau:

Ban Máy Dụng Cụ học về Nguội, Tiện Phay Bào ...
Ban Cơ Khí hay Đông Cơ học về Máy Nổ 2 Th́, 4 Th́, Máy dầu (Diesel, dầu cặn Mazut)...
Ban Điện học về Điện nhà, Điên Motor, Điện Tử (Electronics, Transistors)...
Ban Kỹ Nghệ Gổ học về Cưa, Xẽ, Bào Gổ, Các loại Mọng, Đóng Tủ, Bàn Ghế...
Ban Kỹ Nghệ Sắt học về Rèn, G̣, Hàn...
Ban Nữ Công Gia Chánh phần phổ thông học giống như các Ban Chuyên Nghiệp khác...

 

Ban Thương Măi học về Kế Toán Plan 1957, Đánh Máy Chữ theo Mẫu Tự Việt Nam(QSĐƯ), Thương Măi Thưc Hành, các môn phổ thông như Toán, Vật Lư, Hóa Học, Việt Văn, Lịch Sữ, Địa Lư, Công Dân Giáo Dục, Anh Văn, Pháp Văn, Thể Dục Thể Thao. V́ không qua các xưởng thực hành nên không học môn Kỹ Nghệ Họa.

Số giờ học hàng tuần cho tất cả các môn, kể cả việc thực tập ở các xưởng thường từ 40 đến 44 giờ, tùy theo học sinh đang theo học Ban Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp hay Ban Kỹ Thuật Toán. Ban KT Chuyên Nghiệp sẽ học năng về chuyên môn và chi tiết hơn và các môn Phổ Thông có phần nhẹ hơn, ngược lại những học sinh theo học Ban Kỹ Thuật Toán học nghề nhẹ hơn và phần các môn phổ thông sẽ học nhiều hơn.

ĐIỀU KIỆN THEO HỌC, THỜI GIAN HỌC VÀ VĂN BẰNG TỐT NGHIỆP.

 

Muốn vào học các Trường Trung Học Kỹ Thuật học sinh phải có Văn Bằng Tiểu Học (hay văn bằng Certificate của Pháp) để đuợc thi tuyển vào các lớp Đệ Thất (lớp 6 sau này). Nhưng kể từ niên học 1964-1965 các Trường Trung Học Kỹ Thuật chỉ tuyển sinh vào cấp lờp Đệ Ngũ (lớp 8 sau này). Học sinh muốn dự thi học sinh phải có ít nhất là chứng chỉ lớp Đệ Lục (lớp 7 sau này) hoặc có Văn Bằng Tiểu Học tính đến ngày nộp đơn thi ít nhất là hai năm. Về tuổi tác có thể lớn hơn học sinh trường phổ thông 1 năm.

Những học sinh Kỹ Thuật Toán sau 2 năm sẽ thi lấy Văn Bằng Trung Học Kỹ Thuật, học sinh Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp sau 3 năm theo học sẽ thi lấy Văn Bằng Trung Học Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp, Ban Thương Măi cũng là Ban Chuyên Nghiệp, nên Kế Toán, Đánh Máy Chữ, Thương Măi Thực Hành cũng là Chuyên Nghiệp nên cũng giống như Ban Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp sẽ thi lấy Văn Bằng Trung Học vào năm lớp Đệ Tam (lớp 10 sau này). Những học sinh có Văn Bằng Trung Học Kỹ Thuật Chuyên Nghiệp phải thi tuyển để theo học tiếp ở Trường Bách Khoa Trung Cấp Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp Văn Bằng Bách Khoa Trung Cấp được tính là Văn Bằng Tương Đương Tú Tài phần II Ban "B" hoặc Kỹ Thuật. Riêng Ban Thương Măi được Tuyển thẳng vào Trường Quốc Gia Thương Măi (c̣n được gọi là Trường Cán Sự Thương Măi)..

Trở lại Văn Bằng Tú Tài phần I, phần II Kỹ Thuật có thể nộp đơn thi tuyển vào các Trường Đại Học nếu đủ khả năng, tương lai sẽ sáng hơn, nhưng hầu hết các em học sinh kỹ thuật cũng như phổ thông thường trúng tuyển vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, thường thường sau khi thụ huấn quân sự, học sinh kỹ thuật đựơc chọn đơn vị Quân Cụ, Quân Nhu, Quân Vận (nếu học chuyên nghiệp), Sĩ Quan Hành Chánh Tài Chánh nếu học Quốc Gia Hành Chánh hay Quốc Gia Thương Măi...

CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CÔNG LẬP VÀ TƯ THỤC ĐĂ CÓ Ở MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975.

Như đă nói ở trên, hầu hết các thành phố lớn và tỉnh lỵ miên Nam Việt Nam trước đây đều có xây dừng và thành lập các trường Trung Học Kỹ Thuật, từ phía Nam vĩ tuyến 17 cho đến mũi Cà Mau đă có các Trường Kỹ Thuật như sau:

Ở Miền Trung có các Trường Trung Học Kỹ Thuật Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang. Tất cả các trường này là Trung Học Kỹ Thuật Đệ Nhị Cấp. Thị Xă Ban Mê Thuột thuộc cao nguyên Trung Phần có Trường Trung Học Kỹ Thuật Y UT. Các tỉnh miên Đông và Nam có các Trựng Trung Học khác như: Trung Học Kỹ Thuật Biên Ḥa, Phước Tuy, B́nh Dương, Định Tường (Mỹ Tho), G̣ Công, Kiến Ḥa (Bến Tre), Vĩnh Long, Kiến Phong(Cao Lảnh), Cần Thơ, Long Xuyên (An giang), Rạch Giá (Kiên Giang), trong số những trường Kỹ Thuật này có 2 Trường Kỹ Thuật Vĩnh Long, và Long Xuyên là 2 trường Đệ Nhị Cấp và là hai trường Kỹ thuật lớn nhất ở Miền Tây Nam Phần.

Không nói đến các Truờng Trung Học Kỹ Thuật ở Sài G̣n là một điều thiếu sót không thể chấp nhận được v́ SàiG̣n là Thủ Đô của Nước Việt Nam trước năm 1975, Đô Thành Saigon có Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, Nguyễn Trường Tộ, Phan Đ́nh Phùng(Trung Tâm Tiểu Công Nghệ), Việt Đức, Kỹ Thuật Gia Định và Trung Học Kỹ Thuật Quốc Gia Nghĩa Tử trực thuộc Bộ Cựu Chiến Binh. Trong số các trường này Trương Trung Học kỹ Thuật Cao Thắng là Trương Kỹ Thuật Đệ Nhị Cấp nổi tiếng nhất, Trường Trung học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ mới chuyển thành Trường Trung Học Kỹ Thuât Đệ Nhị Cấp kể từ niên khóa 1972 1973.

Ngoài các Trường Kỹ Thuật Công Lập kể trên, ở miền Nam c̣n có một số trường Kỹ Thuật Tư Thục, nhưng hầu hết đêu được mở ở Thủ Đô Saigon do có nhu cầu cao, có thể tóm tắt như sau: Trung Học Kỹ Thuật Á Châu (Ở Đương Trần Hưng Đạo, Quân 1 Saigon, về sau chuyển về Đường Trương Minh Giảng Quân 3 Saigon và đổi tên thành Trường Trung Học Kỹ Thuật Cao Đạt; Trường Trung học Kỹ Thuật Don Bosco ở Quận G̣ Vấp thuộc Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Một Trường Kỹ Thuật và Nông Lâm Súc Tư Thục ở Ngă Tư Bảy Hiền, Thị Xă Đà Lạt cũng có Trương Kỹ Thuật Tư Thục Don Bosco, hằng năm Nha Kỹ Thuật và Học Vụ có tổ chức Hội Đồng thi Trung Học Kỹ Thuật riêng cho những học sinh trường này.

Trên đây chỉ là một số ghi nhận về mục đích đào tạo, chương tŕnh giảng dạy, điều kiện thi tuyển và Văn Bằng tốt nghiệp của hầu hết cac Trường Trung Học Kỹ Thuật ở Miền Nam Việt Nam. Riêng chương tŕnh học và giăng dạy các ngành nghề chuyên môn ở một số trường đặc biệt như Trường Trung Học Kỹ Thuật Gia Định, Biên Ḥa, B́nh Dương, Phan Đ́nh Phùng ... c̣n có nhiều phần khác biệt mà chỉ có những vị Giáo Sư hoặc Ban Giám Hiệu của các trường đó mới có thể tŕnh bày đầy đủ được.

Ôn lại những kỹ niệm