Những lằn ranh nghiệt ngă

Tháng  bảy năm năm mươi  tư, một số thành  phố và vùng quê miền Bắc được  tiếp thu, người  ta lũ lượt kéo  về cảng Hải Pḥng xuống tàu vào Nam,  những người giàu  có và công chức của chính phủ th́  đi bằng máy bay,  từ Hà Nội bay  thẳng vào Sài G̣n.

Dù đi bằng cách  nào, th́ lịch sử  đă đánh dấu ngày  chia đôi đất nước,đời sống dân chúng  miền Bắc như khoác  lên chiếc áo mới  màu đen ảm đạm.  

Giữa  lúc ấy thầy tôi  bỗng dưng trở bệnh,  chứng đau bao tử của ông lần này  nặng hơn, hết thuốc  chữa. Biết khó  qua khỏi, trước khi chết, thầy tôi  dặn ḍ mẹ tôi  hễ ma chay xong  phải t́m đường đưa các con vào  Nam, đó là quyết  định cuối cùng  của ông , dù trước đó thầy  tôi không hề có  ư định bỏ tất  cả cơ nghiệp để  ra đi. 

Thầy tôi qua đời giữa cơn hỗn loạn của ngày đất nước chia hai. C̣n một chút sức tàn và minh mẫn, thoi thóp như ngọn đèn lù mù sắp hết dầu, lóe lên một lần chót rồi tắt, thầy tôi đă hiểu thế nào là sự thay đổi của thời cuộc. Lư do thầy tôi bảo vợ đưa các con đi Nam, có lẽ chỉ thầy mẹ tôi hiểu với nhau, cả một sự nghiệp gầy dựng gần hai mươi năm đă vững vàng lắm, vậy mà thầy tôi không tiếc. /

Chỉ  ba hôm sau đám  ma thầy tôi, một  buổi sáng gần cuối năm, trời mùa Đông  có mưa phùn và  gió bấc, mẹ tôi  dặn ḍ người bơ già, rồi gần như  lén lút, dẫn ba  đứa con nhỏ đi  trước, để anh tôi ở lại đi  sau với người bơ  già, v́ mọi người  không dám đi cùng một lúc. Anh tôi  khi ấy mới mười  lăm tuổi, c̣n người  anh lớn đă đi theo người bác vào  Nam trong chuyến tàu  trước. 

Mẹ con dẫn nhau ra Hải Dương trú ngụ ở nhà người chị họ, mẹ tôi định quay về đón anh tôi th́ một người cháu họ cũng vừa thoát được, gặp mẹ tôi với lời nhắn của anh :-" Mẹ đừng về nữa, con sẽ t́m cách đi sau".

Nếu ở lại chừng vài hôm, chắc mẹ tôi chẳng bao giờ c̣n đi đâu nữa. 

Chờ  đợi măi mà không  thấy anh tôi đến,  chỉ c̣n chuyến tàu chót vào Nam,  không c̣n cách nào  hơn, mẹ tôi không thể quay về mà  cũng không chờ đợi  thêm được, đành  gạt nước mắt ra đi. Cuối cùng  th́ anh tôi ở  lại, chỉ bên này  với bên kia ḍng Bến Hải mà tưởng  chừng vạn dặm,  mẹ tôi vào Nam  mang theo trong ḷng bao đau đớn, khắc  khoải v́ bỏ lại  một đứa con. Nỗi  đau của người mẹ có một đứa  con đă chết, có  đau đớn nhưng cũng có nguôi ngoai, nhưng  nỗi đau của một  người mẹ phải  chia ĺa một đứa con c̣n sống, mà  bất lực không biết  con ḿnh sống ra sao, lưu lạc phương  nào, ở với ai  khi không c̣n cha mẹ, sướng hay khổ,  nó cứ ám ảnh  mẹ tôi suốt một  đời, măi cho đến hơn hai mươi sau  chiến tranh, mẹ  con gặp lại nhau  mừng mừng tủi  tủi.

Lúc  ấy tôi c̣n bé,  chỉ biết là trên  mảnh đất miền quê những ngày mới  vào Nam, mỗi buổi  chiều, khi đợt khói lam chiều tỏa  từ mái nhà tranh  bốc lên trời, theo gió chiều bay về  một phương trời  xa. Mẹ tôi nh́n  lũ con bé dại mà rơi nước mắt,  rồi lại xót xa  nhắc tới anh tôi  c̣n ở lại ngoài  kia. 

Nỗi buồn của mẹ tôi h́nh như cũng ảnh hưởng đến đám con côi. Chị em tôi tha thẩn chơi với nhau, lùi mấy củ khoai trong bếp lửa, h́nh dung đến người anh c̣n ở lại ngoài Bắc, đứa nào cũng ngậm ngùi . Ít lâu sau, người ta t́m cách liên lạc với người nhà c̣n kẹt lại miền Bắc. Qua ngả Cao Miên, mẹ tôi nhận được tấm Bưu thiếp của anh tôi gửi vào, có một đoạn viết cho mẹ tôi: " Mẹ đi rồi, gia đ́nh vẫn vui vẻ, b́nh an. Hai ông cháu vẫn tăng gia sản xuất, đời sống no đủ như xưa.

Ai cũng mong ngày gia đ́nh đoàn tụ...". Lá thư viết bằng mực tím, ngắn ngủi chỉ mấy hàng đă làm mẹ tôi khóc ṛng ră. Làm sao mà vui vẻ, b́nh an khi gia đ́nh tan tác, một ông già với một đứa trẻ con mười lăm tuổi làm ǵ có sức lao động mà tăng gia sản xuất? Không phải chỉ ḿnh gia đ́nh tôi mới tan tác như thế, thỉnh thoảng lại có người nhận tin từ miền Bắc, đưa cho nhau xem rồi mắt ai nấy đỏ hoe.

Chỉ  vài năm sau, đất  nước đă chia hai  lại tiếp tục chiến tranh, những người  tập kết vào mùa  thu ra Bắc không  có ngày trở về, những người di  cư vào Nam chờ  ngày xum họp cũng  chẳng hy vọng đoàn tụ. Người ta không  h́nh dung nổi vận  mệnh của đất  nước lại chỉ là một chuỗi chia  ĺa đằng đẵng,  như khi xưa năm  mươi con theo mẹ lên non, năm mươi  con theo cha xuống  biển, như là một định mệnh oan nghiệt  cho lũ cháu con,  đeo đẳng lên số phận nghiệt ngă  của một dân tộc,  cứ măi măi phân  ly.

                                                        * * * 

Hơn hai mươi năm sau, ngày chiến tranh chấm dứt, may mắn là bom đạn không cướp đi của mẹ tôi đứa con nào, nhà nhà hai miền Nam Bắc đổ xô đi t́m nhau, qua những thông tin liên lạc về địa chỉ cũ. Mẹ tôi bảo người anh lớn viết thư về t́m em, chỉ ít lâu sau th́ nhận được thư anh tôi gửi vào, kèm theo một tấm h́nh chụp cả nhà đứng dưới cây bàng trước cửa. Anh đă có thêm bốn đứa con, cháu lớn độ mười hai tuổi, mặt mũi đứa nào cũng buồn tẻ và gầy guộc, đứa bé nhất anh bồng trên tay, bẽn lẽn nép đầu vào ngực bố. Cả nhà mừng, thở phào. Thế là c̣n sống cả, chỉ trừ chị tôi đi nước ngoài vào những ngày cuối khi miền Nam thất trận. Vậy là thoát, v́ trong nhà đă có người làm việc cho chế độ trước phải khăn gói đi tù, chị tôi thật là may mắn. 

Nhận  lá thư với tấm  h́nh anh tôi gửi  vào Nam cho gia  đ́nh, đôi mắt mẹ tôi đă lờ  mờ, ngắm nghía  măi h́nh ảnh đứa  con trai hai mươi năm xa cách, với  lũ cháu nhỏ mà  cứ chảy nước  mắt. Thế nào rồi mẹ con cũng gặp  nhau, tôi hiểu nỗi  vui trong ḷng mẹ tôi, rồi khi nh́n  mẹ ngồi trầm ngâm  nhai trầu trong bóng tối ngoài hiên,  tôi hiểu mẹ tôi  đang nghĩ đến chị tôi, nỗi buồn trong  ḷng bà mẹ Việt  Nam, t́m lại được một đứa con sau  hai mươi năm đất  nước chiến tranh,  rồi đến lúc ḥa b́nh, lại thêm một  đứa con ra đi,  mà trong thời buổi ấy, không ai nghĩ  có ngày c̣n gặp  lại.Măi năm sau anh tôi mới thu xếp đem đứa con đầu ḷng vào Nam gặp mẹ và gia đ́nh, kèm theo những món quà đơn sơ của miền Bắc. Khúc lụa đen Nam Định để mẹ may quần, anh nghe nói miền Nam không đủ vải vóc, cân bột sắn để mẹ uống cho mát, trà mạn Phú Thọ, vài quả hồng gịn xứ Lạng, khi vào đến miền Nam đă chín nhũn. 

Bữa  cơm xum họp trong  nhà thật cảm động,  chúng tôi nhắc những chuyện ngày thơ  ấu, dù bây giờ  không ai c̣n bé  dại. Có bao nhiêu chuyện để hỏi  để nghe, mẹ con  bà cháu quây quần  trên chiếc chiếu trải trên nền gạch  bông, mẹ tôi bơm  bẽm nhai trầu, nh́n đứa con trai nay  đă trưởng thành  trong đau khổ,  sau bao năm ở lại một ḿnh nơi  quê nhà, đang kể  lại cho gia đ́nh nghe nỗi đoạn trường  của anh. Họ hàng  ai c̣n ai mất, hàng xóm láng giềng  năm xưa, những năm  lũ lụt đói kém, những trận mưa  bom, gia đ́nh bồng  bế nhau di tản  lên mạn ngược.

Chiến tranh là vậy,  nhờ phúc đức tổ  tiên mà gia đ́nh  c̣n đầy đủ, dẫu chưa  trọn vẹn  niềm vui xum họp.  

H́nh như tất cả anh em chúng tôi, dù lớn hay bé, đều mơ hồ nhớ lại căn nhà xưa của thầy mẹ tôi với không khí đầm ấm trong những ngày thơ ấu.

Căn  nhà nằm bên ngoài  bờ thành Sơn, một  cái thành cổ được xây từ đời vua  Minh Mạng. Sơn Tây  có hai cửa chính,  cửa Tiền và cửa Hậu. Phố cửa Hậu  đi thẳng ra bờ  sông Hồng, c̣n nhà  tôi ở phố cửa Tiền đi về hướng  núi Tản, từ nhà,  có thể nh́n thấy  dăy núi Ba V́ mờ mờ trong màn  sương, đường vào  trong đă nhấp nhô  những ngọn đồi thấp. 

Thầy tôi xây một cái bể chứa nước mưa ở góc sân sau, cạnh bể nước có trồng cây hoa ngâu để ướp trà, phía sau nhà bếp là mảnh vườn có cái ao vuông, xung quanh trồng rất nhiều tre trúc và chuối ngự, thuở ấy mẹ tôi c̣n trồng thêm rau cải hay rau muống. Anh tôi kể rằng sau ngày bố chết, mẹ và các em đi Nam, anh sống với người bơ già trong căn nhà gạch hai gian vắng lặng, tất cả tài sản của thầy tôi đă bị tịch biên, chỉ c̣n căn nhà trống trải làm chỗ ở cho hai ông cháu.

Những  buổi chiều mùa  Đông cô quạnh,  thui thủi hai người trong căn nhà thiếu  bếp lửa hồng và  tiếng cười đùa  của lũ em, anh tôi rống lên khóc  trong khi ông bơ  già ngồi ŕ rầm đọc kinh. Rồi chừng  như cám cảnh nỗi  tan tác phân ly, một già một trẻ  nh́n nhau rồi cùng  ̣a lên khóc. 

Sau đó ít lâu, anh tôi nhặt nhạnh tất cả những ǵ của cha mẹ để lại rồi một hôm bỏ nhà ra đi, chưa đầy mười sáu tuổi . Anh chỉ nung nấu một điều, vượt qua sông Bến Hải là c̣n hy vọng gặp lại gia đ́nh. Chuyến đi không thành công, cầu Hiền Lương không dài bao nhiêu nhịp mà khoảng cách khó ḷng vượt qua nổi, những họng súng đen ng̣m chỉ chực nhả đạn vào bất cứ người dân hai miền Nam Bắc, khi điên rồ v́ nhớ thương mà đi qua phía bên này hoặc phía bên kia.

Anh  tôi không đi đến  đâu th́ bị bắt,  không có tội ǵ, chỉ là tội một  đứa trẻ con đi  t́m mẹ và anh  em. Anh bị hai năm tù, lúc được  thả anh vừa mười  tám tuổi, hai năm  tù đă khiến anh thành người lớn  để chịu đựng  được nỗi cô đơn  dằng dặc suốt hai mươi năm sau.  

Lúc ấy ở miền Nam, mẹ tôi cũng vất vả ngược xuôi để nuôi lũ con thơ ăn học, ḷng vẫn ngổn ngang , nghĩ ngợi thương đứa con côi cút chốn quê nhà, chẳng c̣n hy vọng ǵ c̣n nh́n lại con, v́ chiến tranh giữa hai miền h́nh như không có dấu hiệu chấm dứt. Anh tôi tuy chưa đủ lớn, nhưng đă sớm trưởng thành để t́m cách tự lực cánh sinh. Anh làm đủ mọi nghề. Hai cái ḷ gạch ngày xưa thầy tôi làm chủ, nay anh tôi vào làm công cho nhà nước như bao nhiêu người khác. Rồi làm thợ thổi thủy tinh, để sản xuất bóng đèn và chai lọ, đất nước lạc hậu, máy móc thô sơ, con người phải dùng chính sức người để sản xuất. Cơm gạo thiếu, may th́ được ngày một bữa cơm, c̣n ăn độn thêm khoai luộc và ngô bung. 

Được ít lâu, người bơ già cũng lăn ra chết, anh bơ vơ có một ḿnh, chỉ c̣n vài người hàng xóm thân t́nh chạy qua chạy lại. Cậu Hoạt thợ may là người hàng xóm tốt bụng, không vợ không con, sống khắc khổ như nhà tu, dạy cho anh nghề thợ may, v́ nghề thổi ống thủy tinh vừa vất vả lại ăn uống thiếu thốn, dễ bị lao phổi. Hơn hai mươi tuổi anh đă lấy vợ, v́ không chịu nổi nỗi đơn độc, đám cưới chỉ  đơn sơ như một bữa cơm trong nhà , gồm vài người hàng xóm với mấy người thân bên vợ, cô dâu chỉ duynhất có một chiếc áo dài để mặc trong ngày cưới, không có  được chiếc nhẫn kỷ niệm. 

Hai người hàng xóm của gia đ́nh tôi ở ngoài Bắc , là những nhân vật đặc biệt c̣n rơi rớt lại từ thành phần tiểu tư sản. Cậu Hoạt sống một ḿnh, ẩn dật với mớ kinh kệ và cô đơn, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện tu than lên trời làm thánh.

Cậu  chán đời, sinh yếm  thế, một lần đổ  vỡ cậu nh́n đàn bà như tà ma,  dạo trước có người  rủ cậu đi Nam,  nhưng với cậu hễ đă buồn th́ ở  đâu cũng vậy. Cô  Hạ có cửa hàng  đan len và hàng xén, bán đầy kim  chỉ và que đan,  cô c̣n nhận đan  áo cho khách , lúc rảnh rỗi vẫn  hay đọc tiểu thuyết  và ngâm thơ. Cô Hạ thuộc gia đ́nh  trí thức tiểu tư  sản, thích văn chương, gần ba mươi tuổi  mà chưa chồng, cô  chờ người yêu  là một sinh viên Hà Nội, đi theo  nhóm Cách Mạng chống  Pháp măi chẳng thấy về. Thỉnh thoảng,  trong kư ức của  chị tôi khi nhớ  về cô hàng xóm, cô vừa đan áo  vừa ngâm thơ, có  hai câu hay lắm  mà chị tôi c̣n  nhớ: 

" Chết đi là hết sự đời,
Chết đi là hết mọi mùi đắng cay." 

 Cô  Hạ mang một mối  sầu lăng mạn ,  tay đan nhanh thoăn thoắt mà thỉnh  thoảng lại mơ màng  nh́n cụm mây bay  về một phương trời xa. Có lẽ  nỗi sầu ấy nó  vận vào đời cô,  cho nên nghe anh tôi nói, cô sống  thiếu thốn cả  về vật chất lẫn  tinh thần, sau bị lao phổi rồi chết.  Cậu Hoạt sau cũng  lẩn thẩn, đâm  mắc bệnh dở hơi, gàn gàn, dở dở.  . . 

Toàn những chuyện buồn khiến nghe xong ai cũng chảy nước mắt. . . 

* * *

Anh  tôi c̣n kể nhiều  chuyện nữa, rồi  thở dài kết luận, thầy tôi chết đi  là một điều may  mắn cho ông, nếu  sống, nh́n thấy sự nghiệp và của  cải của ḿnh tạo  dựng bằng mồ hôi  nước mắt, bỗng một sáng một chiều  bị cướp giật  đi một cách tức  tưởi như thế, chắc ông cũng điên  lên mà chết. 

Lúc  anh tôi kể đến  cơ nguồn chạy lụt  và chạy bom, cả nhà đều đỏ hoe  đôi mắt. Riêng  anh, đôi mắt ráo  hoảnh, cứ mở to không chớp, nh́n  đau đáu vào khoảng  không như nh́n vào thăm thẳm của dĩ  văng, có những nỗi  khổ tột cùng mà  người lớn c̣n không chịu nổi,  huống ǵ với một  đứa trẻ chưa thành  niên. 

Có lần lụt lớn, nước dâng lên nửa nhà, vợ chồng con cái bồng bế nhau chạy lụt, hành trang chỉ là mấy cái tay nải đựng ít quần áo và lương khô. Khi về, nhà cửa c̣n mốc meo, ẩm ướt, mấy tấm ảnh của thầy mẹ và các em bị loang lổ không c̣n h́nh dạng. Anh đau khổ nh́n tấm ảnh cuối cùng, một lần nữa, những trận lụt lớn, những cơn mưa bom, đánh bạt luôn trong anh chút kỷ niệm của người thân.

Bom  đạn giăng giăng  trên quê hương,  tạo nên những vết sẹo lồi lơm trên  thân thể một tổ  quốc bị đậu mùa.  Lúc miền Bắc toàn dân bị đẩy vào  cuộc chiến tranh,  thanh niên, thanh nữ hồ hởi lên đường  đi giải phóng miền  Nam, anh tôi cũng t́nh nguyện đi B,  nhưng không được  chấp thuận , v́  cái lư lịch có gia đ́nh ở miền  Nam. Vậy mà ở  miền Nam, những  gia đ́nh có cha , anh tập kết  ra Bắc, con em  vẫn được đi học  và nhận vào quân đội, có những  người c̣n được  học hành để trở  thành những nhân tài cho đất nước.

Cuộc chiến tranh ở Việt Nam rất ngộ nghĩnh. Người Việt ở miền Bắc được nhồi nhét ḷng căm thù cao độ, lại thiếu thốn về đời sống vật chất, cho nên họ cương quyết chiến đấu với miền Nam để đoạt được Thiên Đàng tại thế. Người Việt miền Nam vừa chống giặc, vừa ṭ ṃ nh́n xem kẻ thù là ai, rồi khi biết "giặc" cũng chỉ là người Việt Nam như ḿnh, th́ họ rất bao dung để đơn giản nghĩ rằng: "Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.".

Đó có phải là nguyên nhân mà miền Nam thua, khi một nửa bên kia cố t́nh chiếm đoạt, một nửa bên này chỉ ḥa hoăn chống đỡ để duy tŕ ḥa b́nh, sự tương tàn chỉ v́ hoàn cảnh bất đắc dĩ mà bắn giết nhau, chứ ai lại muốn gạch những vết mực đen lên bức tranh quê hương đẹp đẽ. 

Anh tôi vẫn nung nấu ư định đi vào Nam t́m gia đ́nh bằng con đường đi B, nhưng vẫn không toại nguyện, nếu đi lọt, lại thêm một tiểu gia đ́nh tan nát v́ chiến tranh. Dấn thân bằng con đường chết để mong gặp lại mẹ và anh em, nhưng nếu chẳng may anh được chấp nhận, có thể bỏ xác trên đường Trường Sơn, hay trên một chiến trường miền Nam, th́ liệu rằng có nên đếm xác anh vào số những kẻ thù bị tiêu diệt? 

Chắc  chắn là không thể,  nếu nh́n vào sâu  thẳm tấm ḷng người dân miền Nam cũng  như miền Bắc, những  con người chân chất , mộc mạc, không  ai lại muốn đất  nước chiến tranh,  sẽ tội nghiệp vô cùng người dân  quê tôi, để hiểu  rơ cái áp lực  chính trị áp đặt lên thân phận người  dân đôi miền thật  nghiệt ngă. Sau này, khi hai miền thống  nhất, bên thắng  đàn áp bên thua trong hậm hực, bên  thua cũng khuất phục  trong hậm hực, hứa hẹn một màn đấu  đá cẩn thận trong  tương lai nếu có  dịp, những lằn ranh nghiệt ngă không  bao giờ mất. Cũng  chỉ v́ e ngại lằn ranh nghiệt  ngă ấy, mà mẹ  tôi chưa dám thực  hiên một lần trở về, th́ đă vội  vă ĺa đời. Rồi  mỉa mai sao, không  khí chính trị làm miền Nam nghẹt thở,  để sự có mặt  của anh tôi trong  gia đ́nh, lại vẫn là hiện thân cho  một tai ương của  dân tộc, khiến  anh em tôi có lúc không hiểu nhau,  như một câu hát  nghe rất buồn cười nếu được suy diễn  theo lối châm biếm  của người nghe:  "Vui sao, nước mắt lại trào..."  

Miền  Nam vốn từ trước  đến giờ, đă được  trời thương ban cho một mảnh đất  gió thuận mưa ḥa,  kiếm miếng ăn không khó. Nay ḥa b́nh, người dân được  quản lư chặt chẽ  bao tử như thời kỳ chiến tranh chống  Mỹ của miền Bắc, phân phối từng hạt gạo, lít nước  mắm, thước vải  để may quần áo. Ngay cả vấn đề tư tưởng, dẫu  rằng chưa hẳn đă  được thực sự  tôn trọng trong thời kỳ chiến tranh,  nhưng cũng không  đến nỗi bị bóp  nghẹt kiểu " trên đe, dưới búa,  đít ngồi bàn chông"  như lúc này. Anh em tôi đă bắt  đầu có những lấn  cấn, v́ ít nhiều  ǵ mỗi bên đều bị ảnh hưởng  cuộc sống xă hội  nơi ḿnh lớn lên, bởi vậy mà đôi khi vẫn có những  bất đồng tư tưởng  không thể tránh. Kinh tế  tụt dốc, người ta đổ  xô ra chợ trời  bán buôn những thứ  mà ngoài kia gọi là : " phồn  vinh giả tạo".

Giả  hay thật th́ ai  biết cho ai, chỉ  thấy là miền Bắc  đổ xô vào vơ vét những thứ "giả  tạo" đó đem  về, người miền  Nam cũng vội vàng tống khứ những  thứ "giả tạo",  để ḥa ḿnh mau  chóng và khắc phục sự thiếu thốn  của đất nước  trong thời kỳ hậu  chiến. 

Mừng vui trong một nền ḥa b́nh bi thảm như thế, cuộc tái ngộ thật ngậm ngùi. Nếu như người ta hiểu được cái giá quá đắt đă phải trả cho cuộc tương tàn, mà bỏ đi hai chữ hận thù, cùng bắt tay vào xây dựng đất nước th́ giờ đây tổ quốc đă đẹp đẽ biết bao. Sự bực dọc khiến người miền Nam nh́n anh em ḿnh ở ngoài Bắc với cái nh́n chung chung trong một nỗi thống hận, bất kể là ai, năm mươi con theo mẹ về trời, năm mươi con theo cha xuống núi, rơ ràng th́ khó mà ḥa hợp với nhau từ cách sống cho tới tư tưởng.

Cả  nhà nghĩ đến chuyện  về thăm quê. Đường  bộ sau chiến tranh c̣n gập ghềnh, đầy hang ổ bom  đạn, đường thủy  th́ lâu lắc, xa xôi, chỉ chờ đường  tàu Thống Nhất  làm xong là thế  nào cũng có nhiều người hai miền  về thăm nhau. Riêng  điều ấy, với  mẹ tôi th́ tôi hiểu đó là điều  bà ray rứt hằng đêm, nỗi sầu xa quê bao năm trường tưởng sẽ về ngay  được, nhưng mẹ  tôi vẫn không về, lư do v́ có người con bỏ nước  ra đi, vẫn có  thể bị họ hàng  ngoài kia đàm tiếu theo quan điểm chính trị thuở đó. 

Trong đêm khuya, mẹ tôi bơm bẽm ngồi nhai trầu hàng giờ ngoài mái hiên không ngủ. Về. Không về. Mẹ tôi quay quắt trong ư tưởng được một lần về thăm mái nhà xưa, nơi chốn cũ, thành phố nhỏ mà quanh đi quẩn lại chỉ những người quen biết.

Con  đường về làng  cũ, có mồ mả  ông bà, có ngôi  mộ của thầy tôi nằm trong một nghĩa  trang cạnh ven đê  sông Hồng, có con đường ra Hà Nội  hai bên râm mát  bóng cây bạch đàn.  Những h́nh ảnh năm cũ, nay như  cuộn phim lần lượt  trở về trong trí  nhớ. Ít ra th́ mẹ tôi vẫn ước  ao về xây lại  nấm mồ của thầy  tôi cho tử tế, được trở về  làng quê cũ, nói  lại ngôn ngữ quê  mùa với anh em, họ hàng trên mảnh  đất quê nhà. 

Tôi đă nh́n thấy bao điều nghịch lư sau những ngày ḥa b́nh, có xum họp rồi vẫn thấy phân ly, có thương yêu rồi vẫn có hận thù. Người mẹ miền Nam vội vă hạ tấm h́nh đứa con đi lính đă tử trận xuống , chỉ v́ anh ta mặc bộ quân phục lính miền Nam, có gắn chiếc huy chương trên ngực áo.

Sự  mất đi của người  con đă là một  đau xót cho người mẹ, ngay cả sau  khi chết, tấm h́nh  kia cũng không được  một chỗ đứng danh dự trên bàn  thờ. Mẹ tôi cũng  thế, dẫu hai mươi  năm trước bỏ lại một đứa con, chỉ  là cái oái oăm  của định mệnh,  hai mươi năm sau, một đứa con lại  ra đi, há không  phải là điều đau  xót. Thật vậy, cho đến cuối đời,  lúc thoi thóp trên  giường bệnh, dường như mẹ tôi vẫn  bị ám ảnh về  sự mất mát này.  Ngày mẹ chết, anh tôi từ Bắc không  vào được đúng  ngày chôn cất, chị  tôi cũng không về được v́ người  ta vẫn cấm chợ  ngăn sông, những  lằn ranh vẫn c̣n, tiếp nối từ thời  kỳ này sang thời  kỳ khác. 

Có nh́n vào cái dáng buồn rầu của người mẹ xa con, mới thấy nỗi u uẩn trong ḷng người mẹ. Buổi trưa hè, mẹ tôi ngồi nhặt gạo nấu bữa cơm chiều, thỉnh thoảng lại buột miệng gọi tên một người con bà nhớ, khi th́ anh tôi, lúc lại chị tôi.

Dường  như lúc ấy trong  ḷng mẹ tôi vẫn  là h́nh ảnh căn nhà lợp ngói hai  gian ở phố Cửa  Tiền năm xưa, anh  tôi độ ấy hơn mười tuổi, cơng  em chạy long nhong  ngoài hè đường,  hay là h́nh ảnh chị tôi , lũn  cũn đi nhổ hết  những cây cải non  trong vườn sau của  mẹ. 

Hai đứa con mà cuộc chiến Việt Nam đă thay nhau đẩy ra khỏi trái tim người mẹ, để mẹ tôi suốt đời nặng trĩu những nhớ thương, đau khổ. 

* * *

 Anh tôi tính hơi bất thường, con người đầy t́nh cảm tha thiết như thế, bỗng dưng nhiều khi lạnh lùng, hoài nghi tất cả. Sự mâu thuẫn nội tâm này là kết quả của những tháng ngày anh cô đơn chống chỏi với đủ mọi thứ  bất trắc trong cuộc sống, nó ảnh hưởng lên tâm hồn anh khiến anh ngờ vực ngay cả ḷng thành thật của người khác.

Càng  suy nghĩ, tôi thấy  anh tôi đáng thương  hơn đáng trách, chính chế độ đă  nhào nặn anh thành  kẻ đa nghi và  đánh mất niềm tin nơi con người,  bị lừa dối, bị  hắt hủi, bị cái  đói cái khổ dằn vật khiến người  ta lúc nào cũng  thắc thỏm lo âu.  Không tin cả Trời, không tin cả Người,  không c̣n niềm tin  th́ đời sống làm ǵ c̣n ư nghĩa.  Chẳng phải ḿnh  anh tôi, sau này  có dịp về lại miền Bắc, tôi mới   xót xa nhận  ra rằng, ngay cả  ḷng nhân ái cũng không được tự  do bày tỏ, thật  gớm ghê cho cái  tàn nhẫn của chính  trị. 

Năm một chín tám mươi , tôi đi Bắc thăm chồng trong trại Cải Tạo, sẵn dịp về thăm anh chị và các cháu. Chuyến xe từ miền Nam đổ chúng tôi xuống vỉa hè một con đường của thị xă Thanh Hóa, lúc ấy tuy ban ngày mà phố xá thật vắng vẻ, không nh́n thấy một chiếc xích lô nào làm phương tiện di chuyển như ở miền Nam. 

Đang ngơ ngác t́m người để hỏi thăm đường ra bến xe đi Băi Trành, như địa chỉ trong thư dặn ḍ. Một đống hành lư ngổn ngang toàn những thực phẩm tiếp tế, chúng tôi lúng túng chưa biết làm sao để chuyển được ngần ấy thứ ra bến xe,  đúng lúc ấy chủ nhân của căn nhà chỗ chúng tôi đứng tạm đi làm về, đằng sau chiếc xe đạp c̣n chở theo một bó rau muống thật to, có lẽ anh mới ghé qua chợ. 

Nh́n bộ điệu ngơ ngác của chị em tôi, anh đoán ngay là dân miền Nam ra thăm tù ở miền Bắc. Thành phố nhỏ, người qua kẻ lại nh́n chằm chằm vào những người lạ dọ dẫm khiến chúng tôi thật khó chịu. May quá, đúng lúc ấy, người chủ nhà chạy ra, anh nói: 

" Các em cứ mang hết hành lư vào trong này, đứng măi ngoài đường người ta ḍm ngó. Vào đây rồi tính sau, đi thăm người nhà cải tạo phải không?" Chẳng  cần anh phải nói  thêm, chúng tôi vội  vă khuân hành lư vào nhà ngay, lúc  này tôi mới chú  ư đến anh, chiếc  nón cối đội đầu, áo sơ mi trắng,  h́nh ảnh công nhân  viên hay cán bộ nhà nước. Tôi cũng  không hiểu sao anh  lại có vẻ tử  tế với chúng tôi như vậy, sau anh  mới kể, đă có  hai lần vào miền  Nam, anh có người anh làm nhà giáo  ở trong ấy, bảo  anh đưa vợ con  gia đ́nh vào có nhà cửa và cơ  sở làm ăn, nhưng  anh không vào, v́  vợ anh vốn người chân quê, gia đ́nh  chị lại ở cả  Thanh Hóa, chị sợ  đi xa không gần gũi cha mẹ anh  em, nên dù thấy  miền Nam phồn thịnh  và đông đảo, vẫn không đi. 

Nhà anh tuy ở phố nhưng vẫn theo kiểu nhà quê, phía sau có chuồng nuôi lợn và cái giếng nước. Sau khi nghỉ ngơi, tắm giặt sạch sẽ, đúng vào giờ tan tầm buổi trưa, chị cũng về nhà nấu cơm, các cháu gửi ở nhà trẻ. Chị ngạc nhiên nh́n chúng tôi, anh vui vẻ vắn tắt vài câu giới thiệu chúng tôi là người nhà của ông anh từ miền Nam ra.

Sau  đó vợ chồng rù  ŕ to nhỏ, chị  cũng không hỏi thêm, sẵn có túi gạo  ngon từ miền Nam  đem ra, tôi tế  nhị thổi nồi cơm trắng để cả nhà  cùng ăn, chị bảo  chiều sẽ dẫn tôi  đi chợ.

Hai chiếc bếp củi được đặt trên nền đất, căn bếp bé tư và tối om om.Trong buồng ngủ của anh chị, thấy có chiếc máy may , một chiếc máy truyền h́nh và chiếc máy hát đă cũ, chắc của người anh trong Nam tặng.

C̣n pḥng khách lại trống trơn, chỉ có chiếc phản gỗ và bộ bàn ghế cũ làm nơi tiếp khách. 

Cơm vừa chín tới th́ một người đàn bà, chắc là hàng xóm của anh chị , thấy có người lạ chạy sang , xồng xộc đi vào nhà, anh vội giới thiệu " mấy cô em bất đắc dĩ" từ miền Nam ra.

Với  vẻ xông xáo rất  tự nhiên, bà ta  đi vào bếp, tự  tiện nhấc nắp vung nồi cơm vừa  chín tới ở trên  bếp, hít hít mấy  hơi  rồi nói với một vẻ đầy  châm biếm: 

" Hôm nay ăn sang nhỉ, nguyên một nồi cơm trắng." 

Rồi bà ta nh́n lom lom vào chúng tôi như ḍ xét, v́ lúc năy bà đă quan sát chúng tôi đứng ở lề đường khá lâu , cho nên sinh nghi trong bụng. Bà hàng xóm ra về, chúng tôi quả thật lo ngại và buồn nôn cho cái kiểu nhảy xổm vào cuộc sống của người khác như thế. Bữa cơm ăn không biết ngon, phần mệt, phần lo, tôi thấy anh thở dài, c̣n chị th́ đăm chiêu, tư lự. Sau bữa ăn trưa, anh phải đi làm, chị cáo ốm ở nhà đưa tôi đi chợ, và sau bữa cơm tối, anh chuẩn bị đưa chị em tôi ra bến xe. Anh nói, giọng buồn buồn:  " Anh phải đưa các cô ra bến xe ngay tối nay, v́ mỗi ngày chỉ có một chuyến xe đi Băi Trành, sợ sáng mai không kịp." 

Thật  ra nh́n vẻ khổ  sở trên nét mặt  anh, tôi có thể hiểu là anh không  dám cho chúng tôi  ngụ lại nhà anh  đêm đó, v́ những rắc rối có thể  xảy đến cho gia  đ́nh anh. Chúng tôi thông cảm ngay nỗi  khổ tâm của anh,  một người xa lạ không chút máu mủ  ruột rà, vậy là  anh quá tốt, không  dám đ̣i hỏi ǵ hơn. 

Gửi gấm chúng tôi ngồi bên hàng hiên một quán nước, lù mù ngọn đèn dầu trên chiếc bàn thấp có bày vài nải chuối, mấy cái bánh in nhân đậu xanh, mấy chai nước chanh pha sẵn và nồi nước chè tươi. Suốt đêm hôm đó chúng tôi nằm trên tấm ny lông trải dưới đất, gối đầu lên đống hành lư sợ mất trộm. Bến xe càng về khuya càng vắng người, chỉ có một vài người lỡ đường chờ chuyến xe sáng ngồi uống nước và hút thuốc vặt. Ḷng tôi nao nao buồn, nh́n quanh th́ chỉ những mảnh đời khốn khổ, đói nghèo , đầy những bất trắc , càng nghĩ tôi càng muốn chảy nước mắt . 

Sáng  hôm sau, trời tờ  mờ sáng và chuyến  xe duy nhất đă vào bến, tôi thấy  anh đă lọc cọc  đạp xe ra. Quần  xắn cao, c̣n vác thêm một cây đ̣n  gánh, anh nói suốt  đêm cũng không ngủ được v́ lo, anh  chỉ mong trời sáng  để ra bến xe  giúp chị em tôi lên xe, đề pḥng  bị mất cắp hay  bọn lơ xe, khuân  vác bắt chẹt. Chờ chúng tôi lên xe  xong xuôi, anh dặn  ḍ mấy câu rồi  mới về, tôi ngồi nghĩ ngợi về ân  nhân mà muốn khóc,  xúc động v́ ḷng  nhân ái giữa con người với nhau.  Những lúc cấp bách  nguy nan, những lúc cô đơn trong ḍng  đời , những chia  xẻ dù nhỏ nhoi  vẫn làm trái tim ta thổn thức, cảm  nhận thật sâu sắc  về t́nh người  quư báu đó. Có một điều đau xót là những ràng buộc của chính trị đă khiến người ta không dám thể hiện ḷng nhân ái, v́ những bất an cho cuộc sống và tương lai khiến phải hững hờ trước nỗi khổ của người khác. Đó có phải là cái lằn ranh nghiệt ngă mà chắc chỉ khi nhắm mắt , hai tay buông xuôi người ta mới thoát ra được. 

Tôi  viết những ḍng  chân thật này để  cảm ơn anh, người tôi không hề quen  ở thị xă Thanh  Hóa êm đềm, buổi sớm mai c̣n phủ đầy sương  núi, chập chùng  những rừng cây  ở phía xa. Ít ra th́ tôi cũng  một lần mở được  chút suy nghĩ hẹp  ḥi cái lằn ranh vô h́nh, đă thắt  chặt lấy tâm tư  dân tộc sau bao  nhiêu năm đầy thành kiến với nhau. Anh  lại ngậm ngùi chia  tay chị em tôi và chúng tôi đáp  chuyến tàu đêm  về Hà Nội. Tôi  mua chiếc bánh ḿ mà nuốt không nổi,  v́ nó cứng như  đá, những con rệp  đánh hơi người ḅ lên lổm ngổm,  bám chặt lấy da  thịt chúng tôi chích nhoi nhói. Tàu đi  qua những sân ga  buồn, leo lét ánh đèn đêm vàng vọt.  Đến ga Nam Định,  tàu ngừng, người ta chen chúc nhảy  tàu ngă dúi dụi  vào nhau, một chị  phụ nữ nhà quê đi buôn c̣n dẫn  theo đứa con gái  khoảng sáu tuổi,  đôi mắt con bé cứ dán chặt vào  ổ bánh ḿ trên  tay tôi thèm thuồng.

Tôi  đưa ổ bánh ḿ  khô cứng cho con  bé, nó mừng rỡ giương mắt ra nh́n  trong khi người mẹ  cảm ơn rối rít.  Một ổ bánh ḿ cứng như đá chọi  chó cũng u đầu,  vậy mà nó đă  mừng rỡ đến như  vậy ư ? Qua  đó, đủ hiểu cái  đói, cái nghèo đă  phủ lên đầu đồng bào tôi, tội nghiệp  biết bao. 

Sau này về miền Nam, một mùa Xuân tôi nhận lá thư của anh viết thăm, có thêm một câu thơ : 

" Trước sau nào thấy bóng người, 
Hoa đào năm ngoái c̣n cười gió Đông. . ." 

Tôi hiểu , thêm  một nét lăng mạn  và mơ mộng nơi  tâm hồn anh . Người ta có thể  bóp chết tất cả,  ngoại trừ tư tưởng.

***

Hai  miền Nam Bắc thông  thương được vài  năm th́ mẹ tôi qua đời, thế là  cái ước vọng được  về nằm bên cạnh  ngôi mộ thầy tôi cũng không bao giờ  thực hiện được.  Ngay cả lúc chết,  các con vẫn c̣n tứ tán mỗi người  một nơi, anh tôi  ở miền Bắc không  vào kịp để chôn cất mẹ, chị tôi  ở phương xa vẫn  chưa có nẻo về,  chỉ c̣n vài anh em gần gũi lo  ma chay cho mẹ.  Đám ma đơn sơ  ở một làng quê miền Nam, có con  sông nước đục  ngầu phù sa và  những giề lục b́nh hoa tím trôi  lang thang, có hàng  dừa xanh soi bóng nước, có tiếng  chuông nhà thờ buông  những âm thanh buồn buồn mỗi khi chiều  xuống. 

Trước  khi đi xa, tôi  về quê bốc mộ  cho mẹ. Lần cuối cùng tôi cầm trên  tay nhúm tro cốt  của mẹ , rồi  nh́n những sợi khói mong manh bay  lên trời trong một  buổi chiều miền quê quạnh vắng,  tôi đă vừa khóc  vừa nói với mẹ  tôi rằng: " Thôi nhé mẹ ơi!  Bây giờ th́ thầy  mẹ đă được gặp  nhau rồi. Dẫu đất nước chia ĺa, dẫu  ḷng người có phân  ly, nay trở về cát bụi, sẽ không  c̣n lằn ranh nghiệt  ngă nào bên kia thế giới. Mẹ đă  hoàn toàn b́nh yên,  b́nh yên măi măi."  

Để tưởng nhớ hương hồn thầy mẹ, 
Riêng tặng các anh chị của tôi. 

Nguyên Nhung