CHUYỆN VUI VỀ TRIẾT GIA TRẦN ĐỨC THẢO 

Phùng Quán

             Anh Cao Xuân Hạo, nhà ngôn ngữ học, bạn tôi từ mấy chục năm nay.

             Anh vừa là học tṛ vừa là hàng xóm của triết gia Trần Đức Thảo, trước ngơ Hàng Chuối và sau này ở khu tập thể Kim Liên. Anh kể:

 

            Ḿnh đang ngồi dịch sách bỗng ngửi thấy mùi cháy khét. Nh́n sang buồng thầy Thảo, thấy khói tuôn ra ngách cửa. Ḿnh hổt hoảng xô cửa vào. Cả gian buồng mờ mịt khói. Lạ lùng nhất là thấy thầy đang đứng bên cửa sổ, giữa đám khói, hai tay vung vẩy, miệng lẩm bẩm độc thoại, như đang tŕnh bày một vấn đề ǵ đó với cả đám đông vô h́nh trước mặt. Ḿnh gọi giật: “Anh Thảo! Anh Thảo! Buồng anh cái ǵ cháy thế?”. Thầy giật ḿnh có vẻ ngơ ngác như vừa bị đánh thức khỏi cơn mê ngủ: “Cháy à? Cái ǵ cháy, ở đâu nhỉ? ờ … ờ… khói ở đâu mà nhiều thế?”. “Th́ khói ngay trong buồng anh chứ đâu!” Ḿnh xông vào giữa đám khói, t́m quanh gian buồng. Một lúc mới phát hiện ra cái bếp dầu để khuất sau tủ sách, trên bếp một cái xoong nhôm bị nung đỏ rực. Té ra thầy nấu cơm, cơm cạn, quên cả đậy vung, quên cả tắt bếp. Xoong cơm nấu một bữa ăn cả ngày, cháy thành than và đang bốc khói mùi khét lẹt. Phải vất vả lắm ḿnh mới tắt được cái bếp dầu nóng rẫy, và bưng được cái xoong than cơm ra khỏi buồng. Ḿnh không bưng th́ thầy không thể dùng tay không mà bê cái xoong… “Anh đang làm ǵ mà mải mê thế?” – ḿnh hỏi. Thầy gỡ cặp kính ra khỏi mắt, lau lau vào vạt áo, nói: “Ḿnh đang chú giải một chương hết sức lư thú và quan trọng trong toàn bộ trước tác của Hêghen…”. Rồi thầy ngồi luôn vào bàn viết… như không c̣n nhớ ǵ đến vụ hoả hoạn chết người suưt nữa xảy ra.

 

*

*          *

 

            Thầy ở tầng gác ba. Các gian buồng ở khu tập thể được thiết kế rất giống nhau. Một buổi trưa thầy đi chợ về, tay xách cái làn đựng mớ rau muống, mấy b́a đậu phụ, chai nước mắm… Mới trèo lên đến tầng hai, thấy gian buồng cạnh cầu thang cửa khép hờ, thầy đẩy cửa bước vào: cửa buồng của thầy cũng thường khép hờ như vậy.

 

            Người đăng trí thi thoảng cũng có thể vào nhầm buồng. Nhưng vừa bước vào họ đă nhận ra ngay. Nhưng thầy Thảo th́ không. Mặc dầu vật dụng trong buồng này sang trọng gấp mười vật dụng trong buồng của thầy. Riêng cái giường của thầy, hẹp mà trải chiếc chiếu mốc meo. C̣n buồng này giường rộng gấp đôi, trải vải hoa sặc sỡ. Thầy thản nhiên để cái làn xuống nhà, nằm lăn ra giường, mắt lơ đăng nh́n lên trần nhà, và thượng cả hai chân lấm bụi lên vải hoa. Chị chủ nhà quét tước ngoài hành lang, bước vào, trố mắt nh́n: “Anh Thảo vào chơi lúc nào mà em không để ư?”. Thầy hơi ngẩng đầu lên, nh́n chị chủ nhà, mặt nhăn lại, nói: “Xin lỗi chị tôi vừa đi về hơi mệt. Có ǵ cần trao đổi, mời chị đến chiều…”. “Nhưng đây là buồng nhà em kia mà!”. Thầy hớt hải ngồi dậy, nh́n quanh buồng, vẻ ngơ ngác: “Ừ nhỉ, chết thật! Đúng là tôi nhầm… Thành thật xin lỗi chị…”.

 

            Một hôm, thầy gọi ḿnh sang - Hạo kể - Tôi đọc em nghe cái này, rồi em góp ư kiến xem, tôi viết thế đă được chưa… Ḿnh chuẩn bị tinh thần để nghe một thiên khảo luận triết học.

 

            Nhưng té ra là một bức thư gửi Uỷ ban nhân dân khu phố và ban lănh đạo khối phố. Thư được viết với văn phong chuẩn mực, chính xác của một thiên bút kư triết học. Nội dung tóm tắt của bức thư như sau: Sau khi bố tôi mất, trong khu phố có dư luận Trần Đức Thảo đối xử với bố không tốt, bố ốm không thuốc men, chăm sóc chu đáo, nên bệnh t́nh ngày càng trầm trọng… Tôi xin thanh minh là dư luận đó không đúng. Tôi đă nuôi dưỡng bố tôi rất tận t́nh, lúc đó bố tôi ốm, tôi lo chạy chữa thuốc men đầy đủ, mặc dầu hoàn cảnh kinh tế rất eo hẹp. Nếu cần thiết, Uỷ ban cho người đến điều tra các hộ hàng xóm để xác minh ư kiến tŕnh bày của tôi v.v…

 

            Ḿnh ngồi ngẩn ra, nh́n thầy và tự hỏi: “Không biết thầy đă điên chưa đây?”. Ḿnh hỏi: “Những việc này cần thiết ǵ mà thầy phải mất công đến như vậy?” Thầy nh́n ḿnh, mắt chớp chớp sau cặp kính trắng, có vẻ lấy làm lạ sao cậu học tṛ ḿnh lại đặt ra một câu hỏi ngu ngốc thế? Thầy cẩn thận gấp bức thư đút vào phong b́, nói: “Việc này theo tôi rất cần thiết. Để chính quyền người ta khỏi hiểu nhầm đạo đức của người trí thức”.

 

*

*          *

 

            Sau ngày ông cụ mất ít lâu, thầy muốn dẹp bỏ những vật dụng thường dùng của bố, v́ gian buồng quá chật chội. Nhưng một ḿnh thầy không đủ sức chuyển những vật dụng khá nặng từ tầng gác ba xuống sân.

 

            Một buổi trưa, thầy đi đâu về, thấy mấy chị buôn chè chai đồng nát ngồi túm tụm trên băi cỏ, soạn xếp những vật dụng mua được. Thầy quan sát có rất nhiều thứ mà ḿnh đang muốn bỏ đi. Thầy nói với các chị: “Tôi có một số đồ đạc bỏ đi giống những thứ này, nhưng không mang xuống được. Tôi muốn nhờ các chị khiêng giúp, có được không?”.  Các chị vui vẻ nhận lời ngay. Giường, tủ buưp-phê, ghế đẩu, ghế tựa, chậu thau, chăn màn, áo quần, giày dép… được đưa xuống, chất thành một đống lớn. Các chị lại c̣n giúp thầy quét tước gian buồng khá tươm tất. Thầy rất cảm động trước ḷng tốt và nhiệt t́nh của các chị. Thầy nói: “Tôi muốn phiền các chị mang những đồ đạc đó ra khỏi sân. Vứt ngổn ngang ở đó bà con trong khu tập thể họ phê b́nh làm mất trật tự, vệ sinh công cộng. Tiền công bao nhiêu, các chị cho tôi biết”. Các chị nói: “Chị em chúng tôi thấy hoàn cảnh bác neo đơn, dọn dẹp giúp bác, chẳng phải công xá ǵ đâu ạ”. Một giáo sư đại học ở tầng trên, nh́n xuống đống đồ đạc dưới sân, tiếc ngẩn người: “Giường tủ, chăn màn c̣n tốt thế kia, sao ông ấy không nhờ ḿnh khiêng giúp!” C̣n thầy th́ phấn khởi ra mặt v́ khỏi tốn đồng tiền công nào mà giải quyết được một việc sức ḿnh không sao giải quyết nổi.

 

            Thầy gọi Cao Xuân Hạo sang xem gian buồng vừa được dọn sạch đồ đạc gật gù đắc ư: “Bà con lao động thật tốt, thật từ tâm, thật đáng kính trọng!”.

 

 

*

*          *

 

            Dễ có đến hai năm tôi không đến khu tập thể Kim Liên. Lần này trở lại, tôi ngạc nhiên thấy cái quán của bà cụ móm dưới gốc xà cừ, mà mười năm trước tôi thường ghé hút thuốc uống nước, vẫn c̣n nguyên ở đó. Tôi vào quán uống chén rượu thay bữa ăn sáng. Bà cụ đang rôm rả nói chuyện với mấy anh xích lô, chắc là những khách quen…

 

            “Con cháu nhà tôi nó vừa sắm được cái ti vi màu nội địa. Tối hôm kia, bắt dây rợ xong, bật lên thấy đang chiếu cảnh tang lễ một ông tên là ǵ ǵ Thảo đó. Người ta giới thiệu cái ông Thảo này là nhà triết học nổi tiếng thế giới, làm đến sáu, bảy chức, chức nào cũng dài dài là, chắc là toàn chức to, được tặng Huân chương Độc lập hạng Hai. Ông ta sang tận bên Tây mà chết, cả Tây cả ta đều làm lễ truy điệu. Toàn cán bộ cấp cao, có danh giá đến dự. Trong khu nhà B6 đằng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét th́ áo bông sù sụ, mùa nực th́ bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một ḿnh, một anh dở người… Một buổi trưa nắng chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh, tôi hỏi: “Ông đi đâu về mà nom vất vả thế.. ế.. ế. Ông nói: Lên chợ Hàng Bè mua củi đun. Tôi hỏi: Thế củi ông để đâu cả rồi? Ông quay lại nh́n cái “pooc ba ga”, mặt cứ ngẩn ṭ te. Chỉ c̣n có sợi dây buộc! Củi nả rơi đâu hết dọc đường, chẳng c̣n lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy tuổi đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… Đấy, cũng là Thảo cả đấy, mà Thảo này th́ sống cơ cực trần ai – bà cụ chép miệng thương cảm: Một vài năm nay không thấy ông đạp xe ngang qua đây, dễ chết rồi cũng nên…”

 

            Tôi uống cạn chén rượu, cười góp chuyện: “Cái ông Thảo mà bà kể đó chính là cái ông Thảo người ta chiếu tang lễ trên ti-vi…”. Bà già bĩu môi: “Ông đừng cho tôi già cả mà nói lỡm tôi!”.

 

Phùng Quán

Tiền phong Chủ nhật, 16/5/1993

 

Xin cám ơn Lă Thị Hải Yến đă chép lại bài này