Tiểu sử tự thuật
TIỂU
SỬ TRẦN ĐỨC THẢO
Sinh
ngày 26/9/1917. tại Hà Nội
Từ 1923 – 1935 Tôi học
tại trường trung học Pháp tại Hà Nội
1935 – 1936
Là sinh viên năm I trường Luật ở Hà Nội
1936 Tới Paris chuẩn bị
dự thi vào Trường Sư phạm phố d’Ulm
1936 – 1939 Học
tại Trường Louis – le Grand và Henri IV
1939 Nhập học Trường Sư
phạm phố d’Ulm1939 – 1943 Học cử nhân triết học (tốt nghiệp cử nhân
triết học)
1940 Lánh nạn tại
Bagnères de Bigorre
09/1940 đến 03/1941 Lánh
nạn ở khoa Văn trường Clermont Ferrand, tại đây cũng có trường Strasbourg
đến sơ tán. Ở đó tôi gặp Jean Cavaillès và được ông đưa vào đọc Triết học
Husserl
03/1941 đến 9/1944 Nội
trú tại Trường Sư phạm phố d’Ulm
1941-1942 Nhận bằng Cử
nhân với đề tài “Phương pháp hiện tượng học của Husserl”
1942-1943Học và lấy bằng
Thạc sĩ triết học
1943-1944 Nghiên cứu
sinh tại Trường Sư phạm phố d’Ulm để thực hiện luận án Tiến sĩ quốc gia (Doctorat
d’Etat) với đề tài “Phương pháp hiện tượng học của Husserl”
Đầu năm 1944
Tới Bỉ, nghiên cứu tại cơ quan lưu trữ Husserl ở Louvain. Edmund Husserl mất
năm 1937 tại Đức sau khi đă bị bọn phát xít gạch tên tại trường đại học. Bà
Husserl đă phải lánh nạn ở Bỉ, tại đó trường đại học Louvain đă thành lập
một khu đặc biệt với tên Lưu trữ Husserl (Archives Husserl) với mục
đích thu thập tài liệu là những bản viết tay của Husserl.
Những nghiên cứu tôi
thực hiện ở đây vào đầu năm 1944 cho phép tôi khằng định những ǵ đă được dự
đoán trong luận án tốt nghiệp: đó là ngược lại với những giải thích thông
thường đă giới thiệu thuyết Hiện tượng học Husserl là một học thuyết về
những bản thể vĩnh hằng, những phân tích của Husserl hướng tới triết học về
thời gian, về con người lịch sử và về lịch sử thế giới. Ông nói: “Cái
vĩnh hằng là một thời gian tuyệt đối, chính bản thân nó chỉ là một
phương thức của thời gian”.
Từ đó tôi đă đi đến
Hiện tượng học của trí tuệ của Hegel mà tôi đă b́nh luận trong bài báo
đăng trên tạp chí Temps Modernes (tháng 9 năm 1948).
Từ tháng 10 năm 1936 đến
tháng 9 năm 1944: Là sinh viên nhận học bổng của Bộ thuộc địa.
Từ tháng 10/1944 đến
tháng 9/1946: là nhà nghiên cứu của Trung tâm Quốc gia nghiên cứu khoa học
(Centre National de Recherches Scientifiques CNRS).
Từ tháng 12 năm 1944: là
Báo cáo viên chính trị tại Đại hội những người Đông Dương ở Avignon, tại đây
tôi đă tŕnh bày một cương lĩnh thiết lập nền dân chủ ở Đông Dương.
Tôi đă được chọn để viết
báo cáo chính trị, v́ mọi người đề biết tôi chưa từng có bất kỳ một quan hệ
nào với những người đảng viên quốc xă. Sau giải phóng đó là điều kiện đầu
tiên để có quyền được nói về chính trị. Đại hội diễn ra tại pḥng lễ hội của
toà Thị chính Avignon và ông thị trưởng là đảng viên Đảng Cộng Sản.
Tôi đă được bầu là Uỷ
viên của Tổng Liên đoàn người Đông Dương ở Pháp và phụ trách nghiên cứu
những vấn đề chính trị.
Đầu năm 1945 với tư cách
uỷ viên Tổng Liên đoàn người Đông Dương, tôi đă có một cuộc tiếp kiến với
ngài Tổng bí thư Maurice Thorez tại trụ sở của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng Sản Pháp. Chúng tôi đă thống nhất đường lối chung trong cuộc đấu tranh
v́ các dân tộc bị áp bức, chống lại chủ nghĩa đế quốc: cuộc đấu tranh nhằm
giải phóng cho các dân tộc ấy, do những điều kiện khách quan của thế giới
đương thời sẽ nhất thiết dẫn đến chủ nghĩa cộng sản. Ngài Maurice Thorez đă
hứa rằng các tổ chức của Đảng Cộng sản Pháp sẽ có những giúp đỡ cụ thể dành
cho các tổ chức địa phương do Tổng Liên đoàn người Đông Dương ở Pháp làm đại
diện. Lời hứa này đă hoàn toàn được tôn trọng.
Tháng 9 năm 1945: Nhiều
truyền đơn và hội nghị báo chí được tổ chức ủng hộ Mặt trận Việt Minh và
Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một bài báo đăng trên tờ
Le Monde đă thuật lại cuộc họp báo của tôi, bài báo đó đă nhắc lại
một câu hỏi của một nhà báo đă hỏi tôi: “Những người Đông Dương sẽ làm ǵ
khi quân đội viễn chinh đổ bộ?”, tôi đă trả lời: “Phải nổ súng”. V́ lời đối
đáp này, tôi đă phải trả giá là bị bắt giam giữ tại nhà tù Príon de la Santé
từ đầu tháng 10 đến cuối tháng 12 năm 1945 (3 tháng), với lư do “xâm phạm an
ninh nước Pháp trong những lănh thổ có chủ quyền của Pháp” (Xem trong tạp
chí Les Temps Modernes, số 5, tháng 12 năm 1946, trang 878).
Khi tôi bị giam giữ, báo
L'Humanité đă đăng một bài đ̣i trả tự do cho tôi. Maurice Merleau
Ponty, Tổng biên tập tạp chí Les Temps Modernes đă truyền đi một bản kiến
nghị cùng nội dung trên tới hàng ngh́n người trí thức.
Ở phố d’Ulm, đă có t́nh
trạng chia rẽ. Những người cộng sản và những người cảm t́nh cộng sản (trong
số đó phải kể đến những người theo trường phái hiện sinh) đă đ̣i trả tự do
cho tôi. Điều đáng lưu ư là trong thời kỳ chiếm đóng của Đức quốc xă, nhóm
của Jean-Paul Sartre đă tham gia vào cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa phát
xít và đă có mối liên hệ với những người Đảng cộng sản. Jean-Paul Sartre
xuất phát trực tiếp từ triết học của Husserl và nếu có bị ảnh hưởng bởi
triết học của Heidegger ông vẫn ở mức khá xa rời triết học của vị này.
Những sinh viên khác và
các sinh viên nội trú trường sư phạm đă phản kháng chống lại việc bắt giữ
tôi, đơn giản là v́ tinh thần dân chủ.
C̣n một số nào đó th́ do
dự, v́ sự gắn bó của họ với tổ chức Liên hiệp Pháp (L’Union Francaise). Nhóm
khác là những người tán thành ư kiến của Bộ Thuộc địa. Những chia rẽ này đă
ngăn cản việc thực hiện bản kháng nghị tập thể do một chi bộ cộng sản tiến
hành.
Trên thực tế, tôi
vẫn ở kư túc xá của Trường sư phạm phố d’Ulm từ khi trở về từ Clermont
Ferrand (tháng 3 năm 1941) cho tới khi giải phóng Paris. Nơi này không bao
dung cho chủ nghĩa phát xít. Những học sinh cảm t́nh với Đảng Quốc Xă hầu
như đă bị trục xuất khỏi kư túc xá, họ là những người ngoại trú, và thực tế
hầu như họ chưa bao giờ đến trường.
Tôi đă là chuyên
gia nghiên cứu về Husserl - người đă bị xoá tên khỏi trường đại học của Đức
ngay khi những người phát xít lên nắm chính quyền. Tôi đă được ông Jean
Cavaillès - người đă tham gia vào cuộc kháng chiến ngay từ buổi đầu bị Đức
Quốc xă chiếm đóng, dẫn dắt đến với thuyết Hiện tượng học Husserl.
Vào đầu tháng 10
năm 1945, Toà án quân sự đă bắt giữ 50 người Đông Dương ở Paris. Một số tờ
báo đă viết rằng những người này đă hợp tác với những người cầm quyền Đức và
Nhật. Thực tế, Toà án đă không t́m được bất cứ một bằng chứng nào chứng tỏ
điều đó và những tờ báo vu khống đă bị kiện v́ nói sai sự thật. Toà án đă
khép tội cho những người này là đă đe doạ đến an ninh nước Pháp trong những
lănh thổ có chủ quyền của Pháp (Xem Tạp chí Les Temps Modernes, số 5,
tháng 12 năm 1946, tr. 878).
Tổng liên đoàn
những người Đông Dương đă đệ đơn kiện lời vu khống của báo chí cho rằng tôi
có quan hệ với những người đảng viên Quốc xă. Ngay lập tức những tờ báo này
ngừng vu khống và nhận thấy rằng những lời vu cáo đó là vô căn cứ.
Bài báo “Về Đông
Dương” của tôi được đăng Tạp chí Les Temps Modernes, số 5, đă được
viết trong thời gian bị giam giữ một ḿnh tại nhà tù Prison de la Santé.
Tôi đă sử dụng
thời gian rảnh rỗi này để kiểm tra lại nhận thức của ḿnh về Hiện tượng học.
Nhưng hoàn cảnh khách quan mà tôi đang lâm vào, cùng với sự đối kháng mạnh
mẽ giữa dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa tư bản đế quốc, đă hướng tôi tới con
đường của chủ nghĩa Mác-Lênin. Kết quả của sự định hướng này là tác phẩm
Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng (năm 1951).
Cuối 1946 (hay
đầu 1947), bài báo đăng trên Tạp chí Les Temps Modernes đả kích những vu
khống chống lại Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương của người
theo phái Trotsky Claude Lefort.
1947: Bài đăng
trên Tạp chí La Pensée (Tư tưởng) đả kích sự xâm lược thuộc địa với Việt
Nam.
1947: Bài đăng
trong Revue de métaphysique et de morale về triết học Macxit, về lịch sử,
tôi đă tán thành những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1947 – 1948: Tổ
chức một loạt hội thảo dành cho sinh viên Trường sư phạm Sèvres về Hiện
tượng học của Husserl, Kant và Hegel.
Tháng 9 năm 1948:
bài báo đăng trên tạp chí Les Temps Mordernes, số 36 về Hiện tượng
học của Tinh thần và nội dung hiện thực của nó”. Nhân dịp xuất bản giáo
tŕnh của Alexandrre Kojève về thuyết Hiện tượng học của tinh thần của
Hegel. Giáo tŕnh này được giảng dạy trước chiến tranh, trong số người nghe
có Jean-Paul Sartre, J. Hyppolite, M. Merleau-Ponty, R. Aron,… điều này đă
gây ảnh hưởng lớn tới triết học Pháp. V́ M. Merleau – Ponty đă đề nghị tôi
viết tường thuật về vấn đề này cho Tạp chí Les Temps Modernes, nhân dịp này
tôi t́m hiểu kỹ hơn về Hegel. Và tôi đă đi đến kết luận rằng chỉ phường pháp
duy vật biện chứng mới cho phép t́m hiểu được nội dung hiện thực, và ư nghĩa
đích thực của Thuyết Hiện tượng học của Hegel.
Bài báo của tôi,
được định hướng chống lại cách giải thích mang tính hiện sinh về Hegel do
Kojève thực hiện, đồng thời bái báo đó cho phép tôi tự giải thoát khỏi quan
điểm duy tâm của Husserl. Nó chính là cây cầu giúp tôi đi từ Hiện tượng học
Hegel đến với chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Cuối năm 1948
đầu năm 1949: Tôi đă kư vào bản tuyên ngôn của các nhà trí thức (công bố
trên báo L’Humanité, nhật báo của Đảng Cộng sản Pháp) phản kháng lại
những đàn áp do Tito tiến hành đối với người Nam Tư.
Cuối năm 1949
đầu năm 1950: Năm buổi trao đổi có ghi tốc kư với Jean-Paul Sartre về chủ
nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh. Sartre mời tôi đến đối thoại, v́ ông đinh
chứng minh rằng chủ nghĩa hiện sinh có thể chung sống hoà b́nh trên phương
diện học thuyết với chủ nghĩa Macxit. Bản tốc kư có mục đích để chuẩn bị một
cuộc công bố chung dưới dạng đối thoại.
Jean-Paul Sartre
không thấy được giá trị của chủ nghĩa Mác về mặt chính trị và về mặt lịch sử
- xă hội. Ngay cả đối với triết học Mác, ông ta cũng không hiểu nó một cách
nghiêm túc. Ông đề nghị một sự phân chia những vùng ảnh hưởng: Chủ nghĩa Mác
chỉ có ảnh hưởng trong một chừng mực nào đó, đối với những vấn đề xă hội,
c̣n chủ nghĩa hiện sinh mới có giá trị về mặt triết học.
Tôi cố gắng chỉ
ra rằng cần phải hiểu chính xác, đúng đắn và nghiêm túc Chủ nghĩa Mác về
phương diện là một triết học. Ở buổi nói chuyện thứ năm, vấn đề cơ bản của
triết học, vấn đề quan hệ của ư thức với vật chất đă dẫn đến việc xem xét kỹ
vốn sống trải chủ yếu.
Jean-Paul Sartre
không biết được Erfahrung und Urteil, và cũng không biết về nhóm D về những
cái mới lạ của Huesserl. Do đó mà cuộc nói chuyện đă kết thúc.
Vào lúc chia tay
nhau, Jean-Paul Sartre đă đồng ư là không c̣n thắc mắc về vấn đề này nữa cả
về phía người này cũng như về phía người kia. Nhưng trái với lời hứa với
nhau trước đó, sau này Jean-Paul Sartre và những người thân cận của ông ta
đă tung ra những lời gièm pha cho rằng: tôi chính là người phải chịu trách
nhiệm cho sự thất bại của cuộc nói chuyện… Và sau đó v́ tôi đơn độc, nên tôi
không có cách nào để chấm dứt những lời đồn thất thiệt này ngoài cách là gửi
đơn kiện Jean-Paul Sartre, sau đó kết cục là chiến dịch lừa lọc do những môn
sinh của Jean-Paul Sartre khởi xướng đă bị chấm dứt ngay lập tức.
Năm 1952,
Jean-Paul Sartre đă quyết định cống hiến tích cực cho phong trào v́ hoà
b́nh. Có thể những trao đổi về quan điểm trước đây vào mùa đông năm
1949-1950 đă góp phần vào sự tiến bộ của ông ta theo hướng hợp tác với những
người cộng sản.
Với tôi những
cuộc đối thoại ấy đă làm dứt điểm được sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa hiện
sinh, sự đoạn tuyệt được bắt đầu bằng bài báo của tôi được viết vào tháng 9
năm 1948, chống lại lời b́nh luận của Kojève về vấn đề Hiện tượng học của
Tinh thần (Phénoménalogie de l’Esprit) của Hegel.
Tháng 8 năm 1951
tôi công bố cuốn “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” do
Nhà xuất bản Minh Tân phát hành.
Cuốn sách này
đánh dấu sự chuyển biến của tôi từ Hiện tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Trên thực tế tôi mới chỉ đạt tời ngưỡng cửa của Chủ nghĩa Mác. Tôi đă
đi đến nhận biết được chân lư của những cơ sở lư luận của học thuyết duy vật
biện chứng, nhưng chưa nắm được đầy đủ những tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong những phân
tích ở phần 2 cuốn sách của tôi, phương pháp được coi là mác-xít đă lạc vào
những điểm nhấn thất thường của hai thứ Hiện tượng học Husserl và Hiện tượng
học Hegel.
Tuy nhiên, ít
nhất th́ những quan điểm được khẳng định rơ ràng trên b́nh diện triết học đủ
đưa tôi quyết định trở về Việt Nam. Cần phải gắn cuộc sống với triết học,
thực hiện bằng một hành động thực tế giải đáp những kết luận về mặt lư luận
trong cuốn sách của ḿnh.
Kể từ sự chấm dứt
của tôi với nhóm Tạp chí Les Temps Modernes vào đầu những năm 1950,
có những người bạn tuyệt vời đă gợi ư cho tôi một lư lẽ đúng đắn rằng không
có một chút hy vọng nào vào một cuộc cách mạng ở Paris. Tôi đă đồng ư, và đă
hoàn thành một cách gấp rút cuốn sách đă quảng cáo từ cuối năm 1943, ngày mà
tôi đă đăng kư làm luận án Tiến sĩ quốc gia về Hiện tượng học của Husserl.
Không bàn đến việc thực hiện luận án này cho Trường Sorbonne nữa, nhnưg bằng
mọi giá tôi phải tự giải phóng về phương diện triết học. Cuốn sách đă hoàn
thành nhưng v́ thiếu thời gian nên chỉ có 368 trang.
Trước khi rời
Paris, tôi đă giao phó lại cho Nguyễn Văn Chỉ, người chịu trách nhiệm liên
lạc với Tạp chí Les Temps Modernes, thay tôi tiếp tục theo dơi việc
kết thúc vụ kiện Jean-Paul Sartre.
Cuối năm 1951,
trở về Việt Nam, qua Prague, Maxcơva, Bắc Kinh.
Năm 1952: nghiên
cứu tại hai xưởng công nghiệp của Việt Bắc, báo cáo với Ban Chấp hành Trung
ương, điều tra t́nh h́nh các trường học ở Việt Bắc, báo cáo với Bộ Giáo dục.
Mùa xuân năm
1953: Dịch các tác phẩm của đồng chí Trường Chinh, Văn pḥng Tổng bí thư.
Mùa hè năm 1953:
Tham gia vào chỉnh huấn, thành viên của Ban Văn, Sử, Địa.
Mùa thu năm 1953
đến đầu năm 1954: Tham gia cải cách ruộng đất với vai tṛ là cán bộ cơ sở ở
Phú Thọ.
Năm 1954: Giảng
viên trường đại học Tổng hợp Hà Nội.
Năm 1954 – 1955:
Giảng viên cổ sử học.
Năm 1955 – 1958:
Giáo sư giảng dạy lịch sử triết học.
Năm 1956 – 1958:
Chủ nhiệm khoa Sử.
Năm 1955 – 1956:
Đăng nhiều bài trên Tập san Đại học Sư phạm và trên Tập san Đại học Văn
khoa.
Cuối năm 1956:
Đăng hai bài báo trên Tạp chí Nhân văn và Giai phẩm trong đó tôi đă so sánh
nền dân chủ xă hội chủ nghĩa với nền dân chủ tư sản, chủ nghĩa nhân đạo
mác-xít với chủ nghĩa nhân đạo tư sản.
Năm 1958 – 1961:
Nghiên cứu những tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Năm 1961 – 1973:
Tham gia dịch các tác phẩm của Mác, Ănghen cho Nhà xuất bản Sự thật.
Năm 1965: Đăng
bài trên Tạp chí La Pensée với bài “Hạt nhân duy lư của phép biện
chứng Hegel” (Dịch từ bài báo đăng trên Tập san Đại học Văn khoa, năm 1956).
1966: Đăng trên
Tạp chí La Pensee bài: “Hành động giải thích chính là h́nh thức
nguyên thuỷ của tính xác thực cảm tính”.
1969 – 1970: Đăng
trên tạp chí La Pensée bài “Từ cử chỉ của ngón tay tới h́nh tượng điển h́nh”
(gồm 3 phần).
1973: Công bố
cuốn “Khảo cứu về nguồn gốc ngôn ngữ và nguồn gốc ư thức” do Nhà xuất bản
Khoa học xă hội Paris ấn hành.
Tháng 1 và tháng
9 năm 1975: Đăng trên Tạp chí La Nouvelle Critique (B́nh luận mới) bài: “Từ
phép Hiện tượng học đến phép biện chứng duy vật của ư thức” (gồm 2 kỳ).
Tháng 5 năm 1981:
Đăng trên Tạp chí La Pensée bài “Hành động giải thích chính là cấu tạo của
tính xác thực cảm tính”.
Tháng 7 năm 1984:
Đăng trên Tạp chí La Pensée bài “Phép biện chứng logic trong sự h́nh thành
của Tư bản”.
Trong hành tŕnh
của tôi, tôi đă được đưa đến Chủ nghĩa Mác qua 2 con đường:
Thứ nhất, đó là
cuộc đấu tranh đ̣i tự do cho dân tộc dẫn đến chủ nghĩa xă hội.
Thứ hai, việc
nghiên cứu triết học và lịch sử triết học đă cho tôi thấy rằng chỉ có duy
nhất Chủ nghĩa Mác-Lênin mới vạch ra con đường đúng đắn để giải quyết những
vấn đề cơ bản về phần lư luận khoa học.
Trong những năm
sau chiến tranh, lần đầu tiên khi tôi được làm quen với những chính văn (tác
phẩm nguyên bản) của Chủ nghĩa Mác, tôi rất ngạc nhiên bởi những lời nhận
xét trong Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” về khả năng chuyển qua
giai cấp vô sản của một bộ phận trí thức tư sản, trong thời kỳ khủng hoảng
toàn bộ của Chủ nghĩa tư bản qua việc nghiên cứu triết học của tôi từ những
vấn đề đơn thuần là trừu tượng đến việc suy xét một cách toàn diện về tính
chân thực của vận động của lịch sử, của tự nhiên lư, hoá đối với cuộc sống,
với xă hội và ư thức.
“Vào thời kỳ mà
cuộc đấu tranh giai cấp đi đến lúc quyết định, th́ quá tŕnh tan ră bên
trong tầng lớp thống trị, bên trong toàn bộ xă hội cũ mang một tính chất
mạnh mẽ và triệt để đến mức một bộ phận của tầng lớp thống trị sẽ tự rời bỏ
giai cấp ḿnh và liên kết với tầng lớp, với giai cấp cách mạng, tầng lớp nắm
giữa tương lai trong tay họ.
Cũng tương tự như
trước đây, một bộ phận quư tộc chuyển qua giai cấp tư sản, ngày nay cũng
tương tự như vậy, một bộ phận tư sản sẽ chuyển qua giai cấp vô sản, Đặc biệt
hơn, một bộ phận những nhà tư tưởng tư sản với sức cố gắng làm việc của ḿnh,
họ có thể vươn lên sự am hiểu về lư luận của toàn bộ quá tŕnh vận động của
lịch sử”.