Mười hai Nhân Duyên
Phúc Trung
I.- Dẫn
: Ai cũng muốn hiểu do đâu mà chúng ta có, có từ lúc nào, sống chết. Tất cả những thắc mắc đó đều do nhân duyên mà ra, Phật đă dạy, có 12 nhân duyên. Hiểu cho được 12 nhân duyên nầy sẽ giúp rất nhiều trên bước đường tu học, một người có thể chứng đắc quả vị Duyên Giác là người đă thấu lư về 12 nhân duyên nầy.II.- Mười hai nhân duyên : Nhân là năng lực chánh phát sanh ra sự vật; Duyên là nă
ng lực phụ giúp cho năng lực chánh phát sanh. Duyên sanh là chỉ cho sự vật được sanh ra khi có đủ duyên và duyên khởi là chỉ cho sự quan hệ làm khởi sanh ra sự vật.1) Các loại : Có mười hai loại nhân duyên: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lăo tử.
1) Vô minh : Chân Như và Vô Minh là một thể như là hai mặt của một đồng tiền, bị mê lầm che lấp Chân như th́ là Vô Minh. Vô minh là nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi, làm cho chúng ta bị trôi lă
n trong khổ đau, nó là căn bản của 11 món sau đây :2) Hành : Nghĩa là hành động, v́ có Vô minh nên mới gây ra sự chuyển dịch thành hành động và những hành đ
ộng vô minh gây ra nhiều tội lỗi, từ đó trói buộc chúng sinh vào luân hồi. Hai món Vô minh và Hành nếu đem phân phối vào nhân quả trong 3 đời th́ chúng thuộc về nghiệp nhân ở quá khứ sẽ có kết quả ở hiện tại.3) Thức : V́ sự mê mờ và hành động nên tạo ra Nghiệp thức phân biệt, hiểu biết sai lầm. V́ sự hiểu biết sai lầm nầy, nên chấp có Năng là ḿnh, có Sở là ngoại vật, từ đó bảo thủ thân mạng, có những cảm xúc vui buồn, thương ghét...
Thức là một trong ba phần tử " thọ, noăn, thức " để thọ thai và tạo thành thân mạng.
4) Danh sắc : Danh là danh từ trừu tượng như Thụ, Tưởng, Hành, Thức uẩn, không có h́nh ảnh, chỉ là trạng thái tùy theo cảnh giới mà hiển hiện. Sắc là h́nh tướng vật thể vô tri có trạng thái tự tiêu hoại do sức lạnh, nóng của thời tiết. Đây chủ yếu nói về Sắc uẩn là do sự phối hợp của bốn Đại : Đất, Nước, Lửa, Gió tức chỉ cho tổng báo thân của loài hữu t́nh khi c̣n ở trong thai trạng và dần dần sinh trưởng. Có Nghiệp thức là có sự luân chuyển, nên khi tâm thức chuyển sự sống qua kiếp khác, nhờ có tâm thức (danh) và tinh huyết của cha mẹ (sắc) ḥa hợp nương tựa nhau, sự sống nảy nở và tồn tại.
5) Lục nhập
: Khi sự sống được h́nh thành và tăng trưởng (kết thai), th́ 6 quan năng được h́nh thành (bào thai), đó là Sáu căn : Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ư có đối tượng Sáu trần là : Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Sáu trần tiếp xúc với sáu căn nên gọi là Lục nhập, khi bào thai c̣n trong bụng mẹ thai nhi tiếp xúc gián tiếp qua người mẹ.6) Xúc
: Xúc chạm đối đăi; nghĩa là sau khi thai nhi ra đời có sự tiếp xúc giữa quan năng với ngoại cảnh, nhưng v́ c̣n nhỏ chừng 1,2 tuổi nên trẻ con chưa biết nhận xét vui, buồn, tốt, xấu ... v́ chưa có đủ lư trí để phân biệt, cảm nhận một cách rơ ràng, tinh tế nên trong giai đoạn nầy gọi là xúc.7) Thọ : Cảm giác, lănh thọ. Đây là giai đ
oạn đứa bé chừng 3 đến 13 tuổi, sự tiếp thọ với ngoại cảnh đă tiến bộ, đứa bé biết thương ghét, giận hờn, buồn, vui, đam mê ... Năm món: Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ đem phân phối vào nhân quả ba đời th́ chúng thuộc quả hiện tại, do nghiệp nhân quá khứ là Vô minh và Hành gây ra.8) Ái : Tham ái . Do biết buồn vui, thương ghét cho nên sinh ḷng tham ái vào khoảng
tuổi từ 14 đến 19, đây là tuổi dậy th́. Yêu cái ǵ ḿnh thích và ghét cái ǵ ḿnh không ưa.9) Thủ : Giành giữ lấy. Từ 20 tuổi trở đi, thân thể phát triển cường tráng, sự tham ái càng mạnh cho nên yêu thích cái ǵ th́ muốn giữ lấy cái đó. Chính v́ sự giành giữ để thỏa măn nên có việc lành việc dữ xảy ra tạo nên thiện và ác nghiệp phải chịu quả báo đời sau.
10) Hữu : Do Ái và Thủ làm nghiệp nhân nên phải có (hữu) thân sau để chịu quả báo lành dữ.
Ba món : Ái, Thủ và Hữu đem phân phối trong nhân
quả ba đời, chúng thuộc về nghiệp nhân hiện tại.11) Sanh : Sanh mạng. Chỉ chung cho tổng báo thân của loài hữu t́nh (tâm và sắc), trong ấy gồm cả thể chất (vật lư) và tinh thần (tâm lư) , sống trong một thời gian do Hành Nghiệp quyết định.
12) Lăo tử : Ḍng sinh mạng con người đến Già rồi chết. Hai món : Sinh, Lăo tử đ
em phân phối nhân quả trong ba đời, chúng thuộc về quả báo ở vị lai.2) Phân loại và công năng :
A) Phân loại : Có ba bộ :
1) Hoặc : Là chỉ cho trạng thái mê mờ của tâm lư nên nhận định rất sai lầm. Vô minh, Ái, Thủ thuộc loại nầy.
2) Nghiệp : Chỉ cho những hành động sai lầm phát ra ở thân, tâm; chúng gồm có : Hành và Hữu.
3) Khổ
: Quả báo đau khổ do nghiệp nhân mê mờ (vô minh, ái, thủ) và hành động sai lầm (hành, hữu) gây ra. Thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lăo tử chịu quả báo do những nghiệp nhân trên gây ra.B)
Công năng :- Muốn chấm dứt luân hồi, giải thoát khổ đau th́
chúng ta phải trừ những nghiệp nhân hữu lậu : Vô minh, Ái, Thủ, Hành, Hữu. Như vậy sẽ không có quả báo trong hiện tại và tương lai : Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lăo tử.- Sự chấm dứt những nghiệp nhân hữu lậu, chính là không để cho vọng tâm làm mê mờ, như thế trí tuệ được sáng suốt.
- Những bậc chuyên quan sát, nghiên cứu tu tập theo Mười hai nhân duyên, diệt trừ các nghiệp hữu lậu, thoát khỏi luân hồi chứng đắc quả vị Bích Chi Phật.
III.- Kết luận : Hiểu rơ Mười hai nhân duyên, chúng ta có thể hiểu v́ sao con người chịu những khổ
đau, tại sao phải bị luân hồi trong sáu nẻo. Chúng ta phải nghiên cứu, quan sát chuyên tâm tu học đồng thời khuyến hóa những người khác, để cùng nhau tu học, cùng nhau tinh tấn, cùng nhau giải thoát mọi khổ đau, ràng buộc trong ṿng sinh tử.Sách Tham khảo :
Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí, Đức Tâm Phật
Pháp THPGVN, Sàig̣n, 1951
Đức Nhuận
( * ) Trở về Mục Lục