Phong Kiều Dạ Bạc

Trương Kế

*

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn sơn tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Tản Ðà dịch ( 1 ):

Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đê
m nghe tiếng chuông chùa Hàn san.

Hồ Ðiệp ngâm lạị.

Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến còn vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đê
m nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Ngô Tất Tố dịch:

Quạ kêu, sương tỏa, trăng lui,
Ðèn chài, cây bãi, đối người nằm khô
Chùa đâu trên núi Cô Tô
Tiếng chuông đưa đến bến đò canh khuya

Trần Trọng Kim dịch :

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
Lửa chài, cây bải, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đê
m nghe tiếng chuông chùa Hàn sơn 
(Ðường Thi)

Trần Trọng San dịch:

Quạ kêu, trăng lẩn sương trời,
Buồn hiu giấc ngủ lửa chài bến phong
Ðêm Cô Tô vẳng tiếng chuông
Chùa Hàn San đến thuyền sông Phong Kiều.

Lý Nhược Tam dịch

Ô đề trăng lặng sương giăng,
Ðèn câu thức bóng lăn tăn gợn sầu
Hàn Sơn Tự, đất Tô Châu
Chuông khuya vọng đến Phong Kiều thuyền neo.

Hữu Nguyên dịch:

Quạ kêu, trăng lặn, ngút trời sương
Phong bãi, đèn câu đắm mộng trường
Đêm vắng Cô Tô thuyền khách đậu
Chuông Hàn San tự thoảng đưa sang.

Huệ Thu dịch

Ðêm Bến Phong Kiều

Trăng chìm quạ khóc trời sương
Ðèn chong cây lặng nghe buồn miên man
Cô Tô phố ngoại chùa Hàn
Nửa đêm chuông đổ rớt sang thuyền chờ .

Chú thích: ( 1 ) Theo Nguyễn Quảng Tuân cho biết bài dịch nầy của Nguyễn Hàm Ninh (1808-1868), đậu Giãi Nguyên năm 1831

Trở về Mục Lục