Đức Quán Thế Âm

Công Hạnh Của Một Vị Đại Bồ Tát.

Chính Hạnh.

Đức Quán Thế Âm là một vị Bồ Tát gần gủi nhất đối với Phật tử Bắc Tông, được người Việt Nam b́nh dân hóa trong những truyện dân gian như Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện..., được nghệ sĩ sáng tác tán dương qua thi ca, qua hát chèo, cải lương, chiếu bóng.

Theo Diệu Pháp Liên Hoa kinh, sở dĩ ngài được xưng tụng là Bồ Tát Quán Thế Âm, v́ ngài thường quán sát tiếng kêu cầu cứu của chúng sanh khi bị đau khổ để đến cứu vớt, ban cho sự an vui. Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm do ngài quán sát tánh nghe mà giác ngộ tự tại, nên ngài cũng được xưng tụng là Quán Tự Tại Bồ Tát và hồi thời quá khứ, hằng sa vô lượng kiếp có đức Phật hiệu là Quán Thế Âm đă thọ kư cho ngài sẽ thành Bồ Tát Quán Thế Âm sau nầy. C̣n theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Đại Bi Tâm Đà La Ni, hồi đời quá khứ cách nay vô lượng kiếp, ngài đă thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng v́ nguyện lực đại bi, nên ngài hiện thân làm Bồ Tát để cứu độ chúng sanh.

Theo kinh Bi Hoa: Về thời quá khứ, Ngài Quán Thế Âm là thái tử con vua Vô Tránh Niệm, thời ấy có đức Bảo Tạng Như Lai giáo hóa chúng sinh, vua nghe Phật thuyết pháp, phát tâm bồ đề chí quyết hành hạnh bồ tát, nguyện thành Phật đặng cứu độ chúng sanh, Vua và thái tử thường cúng dường Phật và Tăng chúng, công hạnh tu chứng viên măn Vua Vô Tránh Niệm chứng quả Phật ở cơi Cực Lạc Tây Phương hiệu là A Di Đà Phật, c̣n thái tử cũng chứng quả Bồ Tát hiệu là Quán Thế Âm cùng ở cơi Tây Phương để tiếp độ chúng sanh.

Người ta thường vẽ hay tô tượng ngài h́nh dáng phụ nữ để tượng trưng cho ḷng từ bi của ngài bao la dịu hiền như của những người mẹ. Trong các tượng Di Đà tam thánh, đức Quán Thế Âm đứng bên tay trái của đức Phật A Di Đà, bên tay phải là đức Đại Thế Chí. Ở Tây Tạng người ta thờ Ngài là h́nh Nam, có 11 mặt, ngàn mắt, ngàn tay, có 108 hồng danh, lại chuyển hóa vào đức Đạt lai Lạt Ma và ngự trong đền Potala. Việt Nam ta có tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn, đó cũng là đức Quán Thế Âm. Trong một năm có 3 ngày vía đức Quán Thế Âm là các ngày 19 tháng 2, 19 tháng 6 và 19 tháng 9.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Quán Thế Âm là một vị Bồ Tát có oai lực như chư Phật nên ngài quán sát, ứng hiện đến 32 thân vào các quốc độ để cứu độ chúng sanh :

1) Phật thân. 2) Độc giác thân. 3) Duyên giác thân. 4) Thanh văn thân. 5) Phạm vương thân. 6) Đế Thích thân. 7)Tự tại thiên thân. 8) Đại tự tại thiên thân. 9) Thiên đại tướng quân thân. 10) Tứ thiên vương thân. 11) Tứ thiên vương quốc thái tử thân. 12) Nhơn vương thân. 13)Trưởng giả thân. 14) Cư sĩ thân. 15) Tể quan thân. 16) Bà la môn thân. 17) Tỳ kheo thân. 18) Tỳ kheo ni thân. 19) Ưu Bà tắc thân. 20) Ưu Bà di thân. 21) Nữ chúa thân, Quốc phu nhân thân và Mạng phụ đại gia thân. 22) Đồng nam thân. 23) Đồng nữ thân. 24) Thiên thân. 25) Long thân. 26) Dược xoa thân. 27) Càn thát bà thân. 28) A tu la thân. 29) Khẩn na la thân. 30) Ma hầu la già thân. 31) Nhơn thân. 32) Phi nhơn thân.

Đức Quán Thế Âm có 14 công đức bố thí cho chúng sanh khi cầu cứu ngài:

1) Các chúng sanh khổ năo trong mười phương được giải thoát.
2) Vào trong lửa lớn, lửa chẳng đốt cháy.
3) Những chúng sanh đương gặp nạn nước th́ chẳng ch́m được.
4) Những chúng sanh bị vào trong nước quỉ, quỉ chẳng làm hại được.
5) Những chúng sanh khi lâm nguy th́ đao trượng liền găy.
6) Những chúng sanh gặp các loài ác quỉ, ác thần th́ chúng chẳng thấy ḿnh.
7) Những chúng sanh đương bị cùm trói, gông xiềng th́ được rời ra khỏi ḿnh.
8) Những chúng sanh khi vào đ
ường hiểm, đạo tặc chẳng cướp được của ḿnh.
9) Những chúng sanh tham dục, liền dứt khỏi ḷng dục.
10) Những chúng sanh nóng giận, liền dứt ḷng sân.
11) Những chúng sanh si mê, liền dứt khỏ tánh si mê.
12) Những chúng sanh muốn cầu con trai, th́ sanh đ
ăng con trai tuấn tú, trí tuệ.
13) Những chúng sanh muốn cầu con gái, th́ sanh gái đẹp, có phước đức.
14) Những chúng sanh chỉ tŕ niệm một danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, th́ được lợi ích phước đức, cũng bằng như tŕ danh hiệu của các Đại Bồ Bồ Tát nhiều như số cát trong sáu mươi hai ức sông Hằng.

Ngài có 12 hạnh nguyện lớn :

1) Nguyện phát thề rộng lớn. 2) Nguyện thường ở biển Nam với tâm không ngăn ngại. 3) Nguyện ở cơi Ta bà khi nghe kêu cầu th́ đến cứu. 4) Nguyện diệt tà ma, trừ yêu quái năng trừ nguy hiểm. 5) Nguyện dùng b́nh thanh tịnh và cành dương liễu để tưới nước cam lồ làm mát mẻ chúng sanh. 6) Nguyện ḷng từ lớn, thường hỷ xả b́nh đẳng độ mọi chúng sanh. 7) Nguyện suốt ngày đêm không mỏi mệt diệt ba đường khổ: tham, sân, si. 8) Nguyện hướng theo núi Nam chuyên lễ bái phá xiềng giải thoát. 9) Nguyện dùng giáo pháp Phật đem vào trong biển khổ để cứu hết chúng sanh. 10) Nguyện tiếp dẫn chúng sanh về cơi Tây phương. 11) Nguyện Đức Di Đà thọ kư cho chúng sanh được về cơi Cực Lạc. 12) Nguyện thân trang nghiêm không ǵ sánh, chí quyết đạt mười hai hạnh.

Những điều nầy cũng được lập lại ở Phẩm Phổ Môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Bài SÁM CẦU AN đă nhắc lại và tán dương hạnh nguyện của Đức Quán Âm như sau :

Con quỳ lạy Phật chứng minh,
Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền.
Cầu cho tín chủ hiện tiền,
Nội gia quyến thuộc b́nh yên điều ḥa.
Thọ trường hưởng phước nhàn ca,
Phổ môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi.
Quán Âm pḥ hộ vui chơi,
Mười hai câu nguyện độ đời nên danh.
Thiện nam tín nữ ḷng thành,
Ăn chay niệm Phật làm lành vái van.
Quán Âm xem xét thế gian,
Rước người ch́m nổi mười phương phiêu trầm.
Mau mau niệm Phật Quán Âm,
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng ḷa.
Đương cơn lửa cháy đốt ta,
Niệm danh Bồ tát hóa ra sen vàng.
Gió Đông đi biển ch́m thuyền,
Niệm danh Bồ tát sóng tan hết liền.
Tà ma quỉ báo khùng điên.
Niệm danh Bồ tát mạnh liền khôn ngoan.
Vào rừng cọp rắn nghinh ngang,
Niệm danh Bồ tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra,
Quán Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù bị ếm mê mang
Quán Âm niệm niệm vái van tịnh b́nh.
Quán Âm thọ kư làm tin,
Tùy duyên thuyết pháp độ ḿnh hết mê.
Nương theo Bồ tát trở về,
Thấy ḿnh ngồi gốc Bồ đề giống in.
Tay cầm bầu nước tịnh b́nh,
Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàngt.
Cam lồ rưới khắp thế gian,
Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn.
Quán Âm cứu hết tai nàn,
Độ đời an lạc mời phương thái b́nh.
Quán Âm điểm đạo độ ḿnh,
Quán Âm Bồ Tát chứng minh độ đời.

Dựa vào công hạnh tu chứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, để tạo nên Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh và trong đó Bồ Tát đă giảng giải cho ông Xá Lợi Phất về Tánh Không. Bản dịch sau đây trọn nghĩa và rất dễ đọc khi tụng kinh :

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát Nhă Ba La mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều Không, liền qua hết thảy khổ ách.

Này ông Xá Lợi Tử ! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.

Này ông Xá Lợi Tử ! Tướng ‘‘ Không ‘’ của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong ‘‘ Chân Không ‘’ không có Sắc, không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhăn giới cho đến không có ư thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già, chết, cũng không có cái hết già, chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí cũng không chấp chứng đdắc. V́ không chấp chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát nhă ba la mật đa, tâm không ngăn ngại, v́ không ngăn ngại nên không sợ hăi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, cứu cánh Niết Bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhă ba la mật đa, đạt đạo quả Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Cho nên biết Bát nhă ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ ách, chân thật không sai.

V́ vậy, nói ra bài chú Bát nhă ba la mật đa. Liền nói bài chú: Yết đế, yết đế. Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ Đề. Sa bà ha.

Bài chú nầy đọc nguyên âm tiếng Phạn như sau: Gate gate Pâragate Pârasamgate Bodhi Svâhă có nghĩa là Đi, đi, đi qua bờ bên kia, qua tới bờ bên kia, Bồ đề. Ta bà ha.

Người ta thường niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm như sau :

1) Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
2) Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
3) Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát .
4) Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát .
5) Nam mô đại từ đại bi linh cảm quảng đại cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.

C̣n Thiên Thủ Thiên Nhăn Đại Bi Tâm Đà La Ni, thường được gọi là Chú Đại Bi là do đức Quán Thế Âm truyền lại, chúng tôi chép theo bản của Ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền đăng trong Từ Quang Tạp Chí số 145 tháng 9 năm 1964. Ông t́m thấy bản phiên âm tiếng Phạn ở một ngôi chùa tại Nam Dương.

MAHAKARUNA DHRANI Đại Bi Thần Chú

Namo Ratnatrayaya

Nam mô Hắt ra đát na đa ra dạ da
Nano Arya Avalokiteshavaraya Bodhisattvaya Mahasattvaya
Nam mô A rị da Bà lô kiết đ
ế thước bát ra da Bồ đề tát đỏa bà ha Ma ha tát đỏa bà da
Mahakarunikaya
Ma ha ca ru ni ca da
Om Savalavati Shuddha Na Tasya
Án ! Tát bàn ra phạt duệ Số đát Na Đát tỏa.
Namaskritva Nimam Arya Avalokiteshavara Lantabha
Nam mô tất kiết lật đỏa Y mông A rị da Bà Lô kiết đế thất phật ra Lăng đà
Namo Nilakantha Srimahapatashami Sarvavatashubham
Nam mô Na ra cẩn tŕ Hê rị ma ha bàn đá sa mế Tát bà a tha đậu du bằng
Ashiyum Sarvasattva
A thệ dựng Tát bà tát đa
Namo Pasattva
Na ma Bà tát đa
Namo Bhagamabhate Tu Tadyatha
Na ma Bà dà ma phạt đạt Đậu Đát điệt tha
Om Avaloka Lokate Kaliti Ishiri Mahabodhisattva Sabho Sabho Mara Mara
Án ! A bà lô hê Lô ca đế Ca
ra đế Di hê rị Ma ha bồ đề tát đỏa Tát bà Tát bà Ma ra Ma ra
Masi Masi Ridhayu Guru Guru Ghamain Dhuru Dhuru Ghashiyati Mahabhashiyati
Ma hê Ma hê Rị đà dựng Cu lô Cu lô Yết mông Độ lô Độ lô Phạt xà da đế Ma ha phạt xà da đế
Dhara Dhara Dhirini Shvaraya Jala Jala Mahabhamara Mudhili Ehyehi
Đà ra Đà ra Địa rị ni Thất phật ra da Giá ra Giá ra Mạ mạ phạt ma ra Mục đế lệ Y hê y hê
Shina Shina Alashinbalashari Basha Bhasnin Bharashaya Hulu Hulu Prahulu
Thất na Thất na A ra sâm phật ra xá lợi Phạt sa Phạt sâm Phật ra sá da Hô lô Hô lô Ma ra hô lô
Hulu Shri Sara Sara Siri Siri Suru Suru Buddhaya Duddhaya Bodhaya Bodhaya
Hô lô Hê rị Sa ra Sa ra Tất rị Tất rị Tô rô Tô rô Bồ đ
ề dạ Bồ đề đạ Bồ đà dạ Bồ đà dạ
Maitriye Nilakansta Trisa Ranabhaya Mane Svaha
Di đế rị dạ Na ra cẩn tŕ Địa rị Sắt ni na ba dạ Ma na Sa bà ha
Sitaya Svaha Maha Sitaya Svaha Sitayaye Shavaraya Svaha
Tất đà dạ Sa bà ha Ma ha Tất đà dạ Sa ba ha Tất đà dủ nghệ Thất bàn ra dạ Sa bà ha
Nilakanthi Svaha Pranila Svaha Shrisimhamukhaya Svaha
Na la cẩn tŕ Sa bà ha Ma ra na la Sa bà ha Tất ra tăng a mục khê da Sa bà ha
Sarvamahasastaya Svaha Chakra Astaya Svaha Padmakeshaya Svaha
Sa bà ma ha a tất đà dạ Sa bà ha Giả kiết ra A tất đà dạ Sa bà ha Ba đà ma kiết tất đà dạ Sa bà ha
Nilakantepantalaya Svaha Mopholishankaraya Svaha
Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ Sa bà ha Ma bà lợi thắng kiết ra dạ Sa bà ha
Namo Ratnatrayaya
Nam mô Hắt ra đát na đá ra dạ da.
Namo Ariya Avalokiteshvaraya Svaha
Nam mô A rị da Bà lô kiết đế thước bàn ra dạ Sa bà ha.
Om Siddhyantu Mantrapataya Svaha.
Án ! Tất điện đô Mạn đà ra bạt đà dạ Sa bà ha.

Nhân đây xin bổ chính, nhiều kinh đă in thiếu một câu ở đoạn : ...a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạc đậu, ... có lẽ lỗi do ấn công gây ra vào thập niên 60, từ đó lưu truyền về sau nầy sự thiếu sót ấy.

Có một vị giáo sư, đă cho tôi biết nhờ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mà ông ta trở nên thông minh và nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, như từ vùng kháng chiến trở về với quốc gia, những giờ phút vô vọng của ngày 30 tháng tư đen, vô t́nh lại may mắn bước lên tàu vượt thoát, nhưng lại rơi vào tàu của bọn xấu có ư định đem mọi người vất xuống hoang đảo lột lưng lấy của, may thay được Đệ Thất hạm đội cứu thoát trước khi bọn chúng ra tay.

Một người nữa nguyên là Đại Úy ở pḥng 7 Bộ Tổng Tham Mưu, trên 60 tuổi ông ta bị thay tim, có lần hết thuốc uống, trên đường đi ông ta bị ngất xỉu té nằm sóng xoài giữa đường, một bà bác sĩ thấy thế ngừng xe xem bệnh t́nh, tiếp theo một ông Bác sĩ khác cũng dừng xe để cứu giúp, hóa ra chính là vị bác sĩ đă mổ thay tim cho ông ta, thế là ông bác sĩ ấy đưa ông ta trở lại bệnh viện để cứu cấp. Ông ta cho biết, nếu không gặp được chính ông bác sĩ mổ tim kia th́ ông ta đă chết luôn rồi.

Trước đó, ông ta thường yêu cầu tôi viết bài ca tụng thần chú Đại bi, bởi v́ theo ông ta thần chú ấy rất linh nghiệm, ông ta đọc luôn và đă thoát được hiểm nguy, ngay khi Học Tập Cải Tạo ở ngoài Bắc, trong Trại người ta đă gọi đi 10 người trong danh sách chuyển trại, ông là người thứ 11 sắp sửa được gọi th́ có lệnh hoăn lại. Về sau phối kiểm tin tức th́ 10 người kia bị kêu đi để thủ tiêu v́ đă biệt vô âm tín, ông ta giờ phút chót may mắn thoát khỏi chết. Đó là chuyện ông kể lại, c̣n chuyện về bệnh tim của ông xăy ra nhiều người được biết. Cho nên ông ta hết sức tin vào Chú Đại Bi và mong những người khác nên tŕ chú nầy, để được tai qua nạn khỏi.

Năm 2001, chúng tôi có được Ḥa Thượng Trí Quang dạy tại phương trượng của người ở Già Lam Quảng Hương như sau : ‘‘ Cầu Phật th́ sẽ được, nhưng cái được đó chỉ có Phật mới biết mà thôi, giả dụ chúng ta cầu xin cho giàu sang, nhưng khi giàu sang chúng ta có c̣n tu nhân tích đức không ? Hay là khi giàu sang ta lại trở nên độc ác, vậy th́ nghèo mà được phước hơn là giàu mà thất đức ‘’.

Tŕ chú Đại Bi, niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát có linh ứng hay không, nên tin theo lời dạy của Ḥa Thượng Trí Quang. Nhưng nếu hành theo 12 đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất định chúng ta sẽ tạo được nhiều công đức, tinh tấn trên đường tu học giải thoát.

Chính Hạnh

Kỷ niệm ngày Vía Đức Quán Thế Âm

1-4-2002

(ngày 19 tháng 2 năm Nhâm Ngọ)

( * ) Trở về Mục Lục