Ngày 25.3.2005 lúc 10 giờ sáng, Thủ Tướng Phan Văn Khải đă tiếp Thiền Sư Nhất Hạnh tại Văn Pḥng Chính Phủ, Hà Nội. Trong dịp này Thiền Sư có đề nghị sáu điểm về sự cởi mở của Đảng Cộng Sản Việt Nam để có thể tiếp xúc với cộng đồng Phật giáo trong nước như một tiềm lực lớn lao của dân tộc và đề nghị bảy điểm nhà nước Việt Nam thực hiện để giải quyết những khó khăn giữa chính quyền và cộng đồng Phật giáo Việt Nam.

Sáu Điểm Đề Nghị của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Về Sự Cởi Mở của Đảng Cộng Sản Việt Nam

  1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi ngày làm đẹp thêm nếp sống ấy.
  2. Người Cộng Sản Việt Nam ư thức rằng cây có cội, nước có nguồn và tổ tiên là nguồn gốc của ḿnh, từ đó ḿnh đă tiếp nhận được rất nhiều tuệ giác, kinh nghiệm và nếp sống văn hóa đẹp và lành.
  3. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái khi mặc quốc phục và thắp một cây hương ở Đền Hùng, trên bàn thờ tổ tiên đặt trong nhà ḿnh, và trước các đài kỷ niệm liệt sĩ. Đền Hùng, bàn thờ tổ tiên và đài liệt sĩ là biểu tượng cho sự quư mến cội nguồn và nếp sống ân nghĩa, không phải là đối tượng của một tín ngưỡng thần linh (Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một biểu tượng cho cội nguồn và ân nghĩa ấy.)
  4. Người Cộng Sản Việt Nam thấy được rằng phần tôn giáo tín ngưỡng bao quanh đạo Phật không phải là cốt tủy của đạo Phật. Cốt tủy của đạo Phật là một nguồn tuệ giác (trí tuệ) siêu việt được tất cả những nhận thức như có/không, tâm/vật, có khả năng bao dung, có khả năng chế tác t́nh huynh đệ lớn (từ bi), có khả năng chuyển hóa hận thù, kỳ thị, là những phép thực tập cụ thể giúp người tháo gỡ được những khó khăn nội tâm, tái lập được truyền thông, đem lại ḥa giải trong nội thân, trong gia đ́nh và trong xă hội. Nguồn tuệ giác này và những phép thực tập này nếu được đem áp dụng đúng phép có công năng xây dựng lại được những gia đ́nh hạnh phúc, những thôn làng yên vui, những khu phố văn minh không bị những tệ hại xă hội như tội phạm, bạo động, ma túy, băng đảng và sắc dục xâm chiếm. Truyền thống từ bi và tuệ giác này đă giúp dân tộc Việt Nam xây dựng nên một nếp sống thuần từ, kiến tạo được những thế kỷ ḥa b́nh và làm nên bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Bản sắc này được luân lưu trong ḍng máu của tất cả mọi người Việt, kể cả những người không nghĩ rằng họ là Phật tử.
  5. Dù thấy rằng có nhiều người tự cho là theo Phật giáo nhưng chỉ biết cúng lễ cầu xin, Người Cộng Sản Việt Nam vẫn cảm thấy thoải mái, không kỳ thị với những người này và chỉ thấy ḿnh được may mắn hơn, được có cơ hội học hỏi và sử dụng nguồn tuệ giác đạo Phật để có một chiều hướng sinh hoạt nội tâm phong phú, có thêm sức mạnh để vượt thắng khó khăn, tạo dựng được cảm thông và hạnh phúc trong gia đ́nh, tổ chức và thành tựu được sự nghiệp ḿnh một cách mau chóng.
  6. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái sống chung với tất cả các truyền thống nào (đă du nhập vào Việt Nam từ lâu hay mới du nhập,) có khuynh hướng dân tộc hóa để trở thành một phần xương thịt của sự sống dân tộc, và t́nh huynh đệ giữa những truyền thống có đặc tính văn hóa dân tộc ấy là một sự thật không cần mang danh hiệu và màu sắc tôn giáo, chủng tộc, chủ thuyết, hoặc ư thức hệ.

Trở về Mục Lục