Tam Giới Duy Tâm, Vạn Pháp Duy Thức

Chính Hạnh

Câu trên trên có nghĩa là trong Vũ trụ do Tâm tạo ra ba cảnh giới bao trùm tất cả, nói như Nguyễn Công Trứ : "Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài", trong đó vạn hữu đều do Thức mà có.

Tam giới gồm có : Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc Giới.

1.- Dục giới (Kamavaca) : Là cõi giới mà chúng sinh có nhiều ham muốn về tình dục và ăn uống. Gồm có Ðịnh cư và Hư không. Ở cõi dục giới, phân chia vũ trụ theo Cửu địa, nó là Ngũ thú tạp cư địa. Là nơi chốn của : Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhơn, thiên.

Ðịnh cư là nơi loài hữu tình cư ngụ, ở giữa có ngọn núi Tu Di, bốn phía là bốn Châu : Ðông Thắng Thần Châu (Châu nầy hình thể rất đẹp nên gọi là Thắng Thân), Bắc Câu Lư Châu trước kia gọi là Uất Ðan Việt, người ở châu nầy chịu một trong tám nạn, là vì hưởng đủ mọi sự sung sướng nên không có tu hành. Nam Thiện Bộ Châu (Jambudvipa) trước gọi là Diêm Phù Ðề vì ở giữa châu nầy có nhiều cây Diêm Phù, châu nầy là nơi chúng ta đang ở. Tây Ngưu Hóa Châu (Godana), châu nầy ở về phía Tây núi Tu Di, nơi đây có nhiều bò dùng làm hàng hóa trao đổi, nên gọi là Tây Ngưu Hóa Châu.

Hư không bao gồm ở trên Ðịnh cư là Lục Dục Thiên và ở dưới là Ðịa ngục.

A.- Lục Dục Thiên là 6 cõi trời, gồm có:

- Tứ Thiên Vương :
- Ðạo lỵ Thiên.
- Tô Dạ Ma Thiên.
- Ðâu Xuất Thiên.
- Hóa Lạc Thiên.
- Tha Hóa Tự Tại Thiên

1) Tứ Thiên vương (Caturmahàràjakayika): Ở lưng chừng núi Tu Di, bốn phương có 4 vị Ðại Thiên Vương: Ðông có Trì Quốc Thiên, Tây có Quảng Mục Thiên, Nam có Tăng Trưởng Thiên và Bắc có Ða Văn Thiên, dưới mỗi vị Ðại Thiên Vương nầy còn có thêm 7 vị Thiên Vương khác để cùng nhau hộ trì một phương, bốn phương có 28 vị Thiên Vương, cộng thêm 4 Ðại Thiên Vương là 32 vị Thiên Vương.

2) Ðạo lỵ thiên (Trâyastrimcas): Cõi trời ở trên đỉnh ngọn núi Tu di, có Hỷ Kiến Thành của vị trời Ðế Thích ở trung ương của 32 vị Thiên vương, cộng chung là 33 cung trời (tam thập tam thiên). Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái tử Tất Ðạt Ða được 7 ngày thác sanh về cõi nầy, cũng tại nơi đây, đức Phật đã hóa độ thánh mẫu Ma Da và thuyết Ðịa Tạng Kinh.

3) Tô Dạ Ma Thiên (Dàma) : Chư thiên ở cõi nầy hưởng đủ mọi sự sung sướng về ngũ dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc dục).

4) Ðâu Xuất Thiên (Tushita) : Gồm có nghĩa là Tri túc, Hỷ túc, Diệu túc và Thượng túc. Hiện nay đức Di Lặc hiện ngự tại cung Ðâu Xuất mà giáo hóa những ai có đầy đủ thiện duyên sanh lên cõi ấy.

5) Hóa Lạc Thiên (Nirmànarati) : Chư thiên tự hóa ra năm món thỏa thích về sắc, thanh, hương, vị, xúc để hưởng lấy những thú vui ấy.

6) Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranirmitavasavarta) : Chư thiên ở cõi nầy tự tại, có thể hóa ra những sự sung sướng cho chư thiên cõi khác hưởng vui thú, nên gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.

B.- Ðịa ngục (Niraya) : Là nơi trừng trị những kẻ làm những điều ác ở trần gian, nó có nghĩa, là nơi chẳng vui, chẳng có thể vui được, chịu đủ mọi nổi khổ (bất lạc, bất khả lạc). Là nơi không thể cứu cho thoát khỏi được, vì cảm ứng các việc ác đã làm (bất khả cứu tế). Là nơi tối tâm, ở đó chẳng hề nghe được đạo lý, chánh pháp (ám minh). Cảnh ngục thất, hình phạt ở dưới đất (địa ngục). Cõi nầy do Diêm Vương cai quản và hiện có Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát đang hóa độ các tội nhân.

Theo Ðịa Tạng Kinh, ở phía Ðông Nam Thiện Bộ Châu, có ngọn núi Thiết vi, trong núi ấy là địa ngục, địa ngục có rất nhiều nhưng đại để có Tám Ðịa Ngục lớn (bát đại địa ngục) :

1) Ðẳng hoạt địa ngục (Sonytra) : Ở đây chúng sanh phạm tội bị hình phạt gươm đao đâm chém, gậy gộc đánh đập, cối xay nghiền giã, khi có gió mát thổi tới thì tỉnh lại như cũ, như lúc còn sống, nên gọi là Ðẳng hoạt.

2) Hắc thằng địa ngục (Kàlasùtra) : Kẻ phạm tội bị dây thừng đen căng tứ chi, rồi bị hình phạt cưa chém tứ chi và thân thể, nên gọi là Hắc thằng.

3) Chúng hợp địa ngục (Sanghàta) : Nơi đây những kẻ phạm tội hợp nhau lại mà cấu xé lẫn nhau, nên gọi là Chúng hợp.

4) Hào khiếu địa ngục (Rovuva) : Cũng gọi là Khiếu hoán địa ngục, nơi đây kẻ mắc tội bị nhiều nhục hình đau đớn mà kêu la thảm thiết, nên gọi là Hào khiếu.

5) Ðại hào khiếu địa ngục (Maha-rovuva) : Nơi đây kẻ mắc tội phải chịu hình phạt tăng thêm, kêu la than khóc càng to hơn, nên gọi là Ðại hào khiếu.

6) Viêm nhiệt địa ngục (Tapana) : Ở đây kẻ mắc tội bị lửa thiêu toàn thân bốc cháy khổ cực không sao chịu được, nên gọi là Viêm nhiệt.

7) Ðại nhiệt địa ngục (Pratapana) : Nơi đây lửa thiêu cực kỳ gay gắt, nổi khổ tăng lên gắp bội, nên gọi là Ðại nhiệt.

8) Vô gián địa ngục (Avisi) : Nơi đây kẻ mắc tội phải chịu khổ liên tục, không lúc nào ngừng nghỉ, nên gọi là Vô gián. Trí Ðộ Luận còn gọi là A Tỳ Ðịa Ngục, theo thứ tự, nó là địa ngục thấp nhất.

Ngoài tám địa ngục lớn kể trên, theo Trí Ðộ Luận, còn có 8 địa ngục lạnh lẻo gọi là Bát Hàn Ðịa Ngục.

1) An phù đà (Anbuda) : Lạnh quá nổi gai ốc lên.

2) Ni la phù đà (Nina-nbuda) : Lạnh quá nứt vở da thịt.

3) A la la (Alala) : Tiếng kêu rên do quá rét.

4) A bà bà (Apapa) : Tiếng kêu rét.

5) Hầu hầu (Hahàdhara) : Tiếng rên hừ hừ.

6) Âu ba la (Utpala) : Tường ngoài cửa địa ngục nầy có hình nổi gai lên như cọng sen, ý nói nơi đây phải chịu rét, da nứt nở như cọng sen.

7) Ba đặc ma (Padma) : Ðịa ngục nầy tường ngoài có màu hoa sen hồng, tượng trưng cho da thịt của tội nhơn bị rét thịt đỏ tấy lên như màu hoa sen.

8) Ma ha ba đầu ma (Maphàpadma) : Nơi bị lạnh nhiều hơn hết.

Ðịa ngục phân loại, kể thành những tên gọi khác nhau như Thập bát địa ngục, Nhất bách tam thập lục địa ngục ..., tất cả đó chỉ cho trạng thái của thức sau khi rời bỏ xác thân.

2.- Sắc giới (Rupâvacara) : Là cõi của những bậc không còn ưa muốn, nhưng còn hình thể và những cảnh trí như lâu đài, cung điện có những hình sắc đẹp đẻ. Cho nên chư thiên khi đã hết phước báo, sanh lại cõi Ta Bà là những người rất đẹp. Sắc giới là cõi chư Thánh, tu hành đã chứng đắc từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền. Gồm có 20 cảnh giới :

A.- Sơ Thiền thiên : Theo cửu địa là Ly sanh hỷ lạc địa, nghĩa là rời khỏi nổi khổ sanh tử, luôn luôn vui sướng.

1) Phạm Thân thiên (Brahmakayia) : Thân thể thanh tịnh.

2) Phạm chúng thiên (Brahmapasadya) : Là nơi những vị chứng đắc nhờ tu tịnh hạnh.

3) Phạm Phụ Thiên (Brahmapurohita) : Là những vị phụ giúp, hỗ trợ cho vị Ðại phạm thiên.

4) Ðại phạm thiên (Mahàbrahmà) : Là cảnh trời, những vị nầy cai quản Phạm Thân Thiên, Phạm chúng thiên và Phạm phụ thiên.

B.- Nhị thiền thiên : Theo Cửu địa là Ðịnh sanh hỷ lạc địa

5) Thiểu quang thiên (Parittabha) : Chư thiên ở tầng trời nầy phát sáng còn ít.

6) Vô lượng quang thiên (Apramànàbha) : Chư thiên ở tầng trời nầy phát sáng rất nhiều

7) Quang âm thiên (Ábhàsvara) : Ở cõi trời nầy không còn âm thanh, dùng ánh sánh để biểu thị cho lời nói hay tư tưởng.

C.- Tam thiền thiên : Theo Cửu địa là Ly hỷ diệu lạc địa

8) Thiểu tịnh thiên (Parittasùbhà) : Ý thức thọ lấy sự vui tịnh diệu, chỉ được ít mà thôi.

9) Vô lượng tịnh thiên (Apramànasubha) : Ở cõi trời nầy rất thanh tịnh .

10) Biến tịnh thiên (Subhakrtsna) : Chư thiên biến cõi trời nầy mọi nơi đều thanh tịnh .

D.- Tứ thiền thiên : Theo Cửu địa gồm cả Tịnh phạm thiên là Xả niệm thanh tịnh địa

11) Vô vân thiên Anabhraka) :

12) Phước sanh thiên (Punyaprasava) : Do tạo phước báu lớn nên sanh vào cõi nầy

13) Quảng quả thiên (Brhatphala) : Do những quả báo thiện rất lớn mà người ta được sanh lên cõi nầy, là cõi cao nhất của những người không tu thiền, do phước báo sâu dầy mà được sanh lên đây.

E.- Tịnh phạm thiên :

14) Vô tưởng thiên (Avrha) : Không có tưởng nghĩ chi hết.

15) Vô phiền thiên (Atapa) : Xa lìa mọi phiền não

16) Vô nhiệt thiên Sudrsa) : Xa lìa mọi nhiệt não.

17) Thiện kiến thiên (Sudarsana) : Do quả báo thiện diệu hiển hiện.

18) Sắc cứu cánh thiên (Akanistha) : Là cõi trời cao nhất của Sắc giới nên gọi là Sắc cứu cánh.

19) Hóa âm thiên (Aghanistha) :

20) Ðại tự tại thiên (Mahàmahesvara) : Là nơi rất tự tại, những vị chúa tể của tam thiên thế giới.

3.- Vô sắc giới (Arupuvacara):

1) Không vô biên xứ (Akàsànantyàyatana) : Theo Cửu địa là Không vô biên xứ địa, là chỗ trống không, không có bờ cõi.

2) Thức vô biên xứ (Vijnànanantyàyatana) : Theo Cửu địa là Thức vô biên xứ địa, ở cõi nầy chỉ có thức mà thôi.

3) Vô sở hữu xứ (Akincanyàyatana) : Theo Cửu địa là Vô sở hữu xứ địa địa. Ở cảnh giới nầy, thấy không có chi hết (vô sở hữu), không được chi hết (vô sở đắc) và không cần dùng chi cả (vô sở dụng).

4) Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Naisvasàmjnànasamjnàyatana) : Theo Cửu địa là Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa. Thật ra nói cho đủ là Phi hữu tưởng và phi phi hữu tưởng xứ, là cõi chẳng có tưởng nghĩ mà cũng chẳng không tưởng nghĩ.

Khi người ta phân chia vũ trụ theo Thập Giới, gồm có 2 phần : Lục đạo và Tứ Thánh, Lục đạo là 6 cõi , chúng sinh bị trôi lăn trong khổ ải luân hồi, còn Tứ thánh là quả vị của những bậc tu đã chứng đắc.

A.- Lục đạo :

  1. Ðịa ngục
  2. Ngạ quỷ
  3. Súc sanh
  4. Người
  5. A Tu La
  6. Trời

  7. B.- Tứ thánh :

  8. Thanh Văn
  9. Duyên Giác
  10. Bồ Tát
  11. Phật

Xin đọc lại một đoạn trong quyển Phật Pháp của ngài Narada :

Ðức Phật viên tịch

Ðức Thế Tôn nhập sơ thiền, Xuất sơ thiền Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền Ngài nhập tứ thiền. Xuất xứ thiền Ngài nhập không vô biên xứ. Xuất không vô biên xứ Ngài nhập thức vô biên xứ. Xuất thức vô biên xứ Ngài nhập vô sở hữu xứ. Xuất vô sở hữu xứ Ngài nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ Ngài nhập diệt thọ tưởng định.

Lúc ấy Ðại Ðức Ãnanda không có thiên nhãn, hỏi Ðại Ðức Anuruddha : "- Bạch Ðại Ðức, có phải Ðức Thế Tôn đã nhập diệt rồi không ?"

- Không phải vậy, nầy đạo hữu Ãnanda, Ðức Thế Tôn chưa diệt độ, Ngài mới nhập diệt thọ tưởng định.

Rồi xuất diệt thọ tưởng định Ðức Phật nhập phi tưởng phi phi tưởng định. Xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ Ngài nhập vô sở hữu xứ định. Xuất vô sở hữu xứ Ngài nhập thức vô biên xứ định. Xuất thức vô biên xứ Ngài nhập không vô biên xứ định. Xuất không vô biên xứ Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền Ngài nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền Ngài nhập tam thiền. Xuất tam thiền Ngài nhập tứ thiền. Xuất tứ thiền, và tức khắc sau đó, Ðức Phật cuối cùng nhập diệt.

Thông thường chúng ta biết rằng những người tu theo Thập thiện, thác sanh lên cõi trời, những người tu theo pháp môn Tịnh độ, thác sanh về cõi Cực Lạc do Ðức Phật A Di Ðà làm giáo chủ, cõi ấy có 9 phẩm cao thấp khác nhau. Những người tu thiền thác sanh về cõi Sắc Giới hay Vô Sắc Giới.

Hiểu được Tam giới và luôn luôn thực hành lời Phật dạy :

     Chư ác mạc tác
     Chúng thiện phụng hành
     Tự tịnh kỳ ý
     Thị chư Phật giáo.

Hành được như thế, dù cho chúng ta không chứng đắc được quả vị cao, cũng được sanh về cỏi nhơn thiên phước báo.

                                                                                                         
25-12-2000

Trở về Mục Lục