Ta với ta

 

*

Thuở 1948-1950, lúc tôi bắt đầu “quay một ṿng hát mà chơi” trong tổ chức Gia đ́nh Phật tử, anh Vơ Đ́nh Cường đă cho xuất bản quyển Ánh Đạo Vàng mà thiếu niên chúng tôi hồi đó đều say mê.

Từ đó đến nay, dù chẳng khi nào ở gần anh, tôi lúc nào cũng có cảm tưởng như anh em cùng sống với nhau dưới cùng một mái nhà - một mái chùa. V́ vậy, lúc Thầy Thiện Châu đề nghị tôi làm chủ toạ để tiếp anh Cường trong buổi hội ngộ hôm nay, tôi vừa hân hạnh lại vừa bỡ ngỡ. Tại sao tôi lại phải tiếp anh Cường? Tôi là chủ, anh Cường là khách? Tôi là “chủ toạ”, anh Cường là “khách toạ”? Rốt cuộc, cả anh và tôi đều là chủ toạ, và điều đó gợi đề tài cho bài mở đầu của tôi. Tôi sẽ nói lăng nhăng về hai chữ khách - chủ.

Tự xét ḿnh, tôi chưa bao giờ là chủ của một cái ǵ, kể cả cuộc đời của tôi, kể cả thân xác của tôi. Tôi muốn tóc cứ xanh, nó cứ bạc. Tôi muốn ngủ, mắt không muốn nhắm. Tôi đâu nghĩ có ngày phải sống xa nước, vậy mà rồi cũng bèo dạt mây trôi.

Luật Việt Nam ngày xưa bảo tôi là chủ gia đ́nh. Có ai trên đời này dám vỗ ngực xưng ḿnh là chủ của bà vợ? Vay nợ để mua nhà, tôi là chủ của cái nhà, hay cái nhà là chủ của tôi? Buồn, vui, thương, yêu, giận, ghét, cứ đến cứ đi, có hề xin phép ǵ tôi đâu?

Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử khi Hà Nội thất thủ, ông là chủ của cái cổ hay quan niệm về danh dự là chủ của chiếc dây? Ư nghĩ mà tôi đang nói ra đây, tôi đang làm chủ nó hay nó đă bắt đầu đưa đẩy tôi đi đến chỗ nào tôi chưa biết? Không ai là chủ của một cái ǵ cả, v́ lẽ không có cái ǵ là khách.

Anh Cường là khách của tôi? C̣n lâu! Khi anh bước chân vào chùa này, khi anh nh́n thấy Phật, tôi cam đoan anh không nghĩ anh là khách. Làm sao anh là khách của Phật! Rất nhiều người trong chúng ta, nếu không muốn nói là tất cả, khi đặt chân lên đất nước của chính ḿnh, bỗng thấy ḿnh là khách. Từ cái hộ chiếu phải cầm, cho đến cách đối xử trong việc ăn ở, đi lại, giao tế, tất cả đều dồn chúng ta đến cái cảm giác lạ lùng rằng ḿnh là khách.

Nhưng sức mấy mà tôi là khách đối với đất nước của tôi! Khi tôi mở cửa sổ và bất chợt thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”, có cắt lưỡi tôi cũng phải nói rằng tôi không là khách của ông Hàn Mặc Tử. Tôi không là khách của con trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn tre; tôi đang thầm th́ nói với nó, cũng như tôi đang thầm th́ nói với tiếng giọt mưa rơi trên tàu lá chuối: “em đă là tôi tự thuở nào”.

Mà tôi cũng không phải là khách của nước Pháp, nước Mỹ. Thời 1973-74, lần đầu tiên tôi đến nước Mỹ, giữa lúc chiến tranh quyết liệt, sắp đến hồi kết thúc. Tôi đến thăm một trường đại học để hô hào chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, và tôi thấy ǵ?

Một cái chuồng cọp, y hệt cái chuồng cọp ở Côn Đảo, với các cậu sinh viên thay phiên nhau ngồi chồm hổm ở trong đó. Tôi là khách sao được của những t́nh cảm thắm thiết kia? Không người trí thức nào thuộc thế hệ anh Cường nói ḿnh là khách của vườn Luxembourg khi lần đầu tiên nh́n lá vàng rơi trên những pho tượng trắng. Không có chủ, không có khách, bởi v́ chủ hay khách là tự trong ḷng, chỉ một khoé môi là chủ thoắt biến thành khách, chỉ một ánh mắt là khách vụt trở thành chủ. Cũng anh Thúc Sinh đó thôi, nhưng khi “trăm nh́n đổ một trận cười như chơi” th́ là quen, mà khi đờ mặt ra nghe Kiều Đàn với bà Hoạn Thư th́ người đâu mà lạ thế!

Ngày trước, tôi thường hay bâng khuâng với hai chữ “nhị hỷ” trong truyền thống cưới hỏi của chúng ta. Đưa dâu là ngày hôm trước, đưa vợ mới cưới về thăm nhà cha mẹ là nhị hỷ hôm sau. Nhị hỷ là nỗi vui thứ hai, thế th́ nỗi vui thứ nhất hẳn là ngày cưới.

Thế mà có người con gái nào không khóc sướt mướt khi lên xe hoa! “Khấp như thiếu nữ vu quy nhật”, đố ai biết nước mắt đó buồn hay vui. Có người bị ép uổng, khóc đă đành. Các cô gái trong Nguyễn Bính đâu có lên xe hoa, chỉ qua đ̣, sang ngang. Cách một con sông, trời ơi, chỉ c̣n có cái cửa sau để ngóng về quê mẹ. Nhưng có người vui cũng khóc, khóc v́ t́nh cảm khách chủ ngổn ngang. Ra đi, bỗng nhiên là khách, khách của tất cả những ǵ đă tạo ra ḿnh, từ cái mái nhà, mái hiên, đứa em út đang ngẩn ngơ nh́n chị cho đến con chó đang ngoe nguẩy đuôi.

Có phải nhị hỷ là để khách ngày hôm qua trở lại là chủ ngày hôm sau? Đố ai nói được! Khi cô dâu hôm trước bước vào nhà, đứa em gái đă thay chiếc khăn nơi giường của chị. Nó đă xoay lại chiếc bàn học, cắm một đoá hoa, làm dỏm một bức rèm. Cha mẹ cô mừng rỡ, nhưng trong dáng tiếp con không phải như mừng con đi học về ngày hôm qua. Có một cái ǵ lạ trong tất cả những cái đều quen.

Ấy, đứa em gái vừa rót mời chị một ly nước. Sao bây giờ nó bỗng rót nước mời chị! Đưa dâu, chưa hẳn là ra đi v́ trong ḷng người con gái chưa rời được nhà cũ. Nhị hỷ, lúc trở về, đó mới là lúc người con gái thấy ḿnh đă cất bước, con chim đă rời tổ.

Những chuyện lăng nhăng, vớ vẩn như vậy trong đời đă đưa tôi vào đạo Phật lúc nào không hay. Người con gái trở về nhị hỷ là khách thật chăng? Không hẳn. Là chủ chẳng? Cũng không. Anh Cường không phải là khách, không phải là chủ.

Tôi đối với tấm thân này của tôi, đối với cuộc đời của tôi cũng thế. Không có cái ǵ là một, không có cái ǵ là hai. Nh́n một sẽ không thấy hai. Nh́n hai sẽ không thấy một. Phật dạy cho tôi sự biết rốt ráo, vượt lên trên một, vượt lên trên hai.

Có lẽ chỉ có con cú, con chuột chù mới chỉ thấy đêm, không thấy ngày. Có lẽ chỉ có anh triết gia gàn ngày xưa mới thắp đuốc đi chơi đêm để nuôi ảo tưởng chỉ có ngày, không có đêm. Thói thường, ai cũng biết rằng mọi sự vật ở trong đời đều có đôi, có cặp: ngày đêm, tả hữu, cao thấp, trên dưới, lạnh nóng, xa gần, tĩnh động…

Từ đó, trong ư niệm cũng nảy sinh ra từng cặp, từng đôi: vui buồn, thương ghét, âm dương, thiên đường địa ngục, tâm vật, và rắc rối hơn nữa duy vật duy tâm. Nhưng có ai là khách của ai đâu? Không có thấp, làm ǵ có ư niệm về cao. Không có xa, biết thế nào là gần? Bao nhiêu triết gia đă thử định nghĩa thế nào là vui, nhưng đố ai biết vui là ǵ nếu không có buồn; đố ai biết thiện là ǵ nếu không có ác? Ông Mạnh Tử bảo: tính người là ác, thế th́ thiện là khách?

Mỗi lần ăn một bát phở ngon, tôi thấy Phật. Thấy thực sự, rành rành trước mắt, chứ không phải chỉ thấy qua triết lư, tôn giáo. Tôi thấy Phật từ từ đi ra bờ sông. Tôi thấy Phật nhúng ḿnh trong nước. Tôi thấy Phật đi lên bờ, ngồi dưới gốc cây. Và đẹp quá, tôi thấy cô thiếu nữ mặc áo xanh thắm kính cẩn dâng lên Phật một bát cháo nấu với sữa và mật của hoa rừng.

Chưa bao giờ Phật nếm một thức ăn ngon như vậy sau sáu năm tu khổ hạnh trong rừng già. Bát cháo làm Phật hồi sinh. Phật ngồi nghỉ, rồi Phật đứng dậy, đi qua bờ bên kia sông, ngồi dưới gốc cây Bồ đề. Tất cả triết lư của Ấn Độ thời ấy nhắm vào việc chế ngự thân xác để làm sáng ra sức mạnh siêu nhiên của tâm linh.

Thân này là khách, tâm linh kia mới là chủ. Đuổi khách đi th́ người chủ mới làm chủ trọn ngôi nhà. Bát cháo của cô thiếu nữ đă làm tan biến ư niệm khách chủ giữa thân xác với tâm linh. Cũng vậy, tôi ăn bát phở và tôi thấy khoan khoái cả trong dạ dày lẫn trong tư tưởng. Cũng như khi tôi nh́n thấy đoá hoa hồng trong vườn: không phải chỉ mắt mũi tôi ngây ngất với sắc hương, cả tâm linh của tôi phơi phới.

Kinh và chuyện thiền đă mang lại cho tôi cả một kho tàng h́nh ảnh, ẩn dụ để từ khước ư niệm khách chủ, một hai. Trên đầu ngọn núi cao ngất kia, mây trắng kết thành một ṿng. Cái h́nh ảnh đẹp trước mắt là đỉnh núi với ṿng mây. Trong cái trực nhận đầu tiên về cái đẹp, trong một thoáng rất nhanh mà cảm quan bắt chợt được cái đẹp như là cái đẹp, đâu có sự phân biệt đây là núi, đó là mây.

Hai bàn tay vỗ vào nhau đánh bộp. Bàn tay trái bảo: tiếng bộp đó là tao. Đâu phải! Bàn tay mặt bảo: là tao, không phải mày. Đâu phải! Là hai bàn tay chăng? Sai nốt! Bằng chứng là nếu tôi đặt ḷng bàn tay này lên ḷng bàn tay kia mà không vỗ th́ chẳng nghe tiếng bộp nào. Thế th́ tiếng bộp đó là do sự vỗ chăng?

Có tất cả trong tiếng bộp; nghĩa là có một, có hai, có nhiều, có vô vàn yếu tố. Bồ Đề Đạt Ma đă nói một câu tuyệt vời: “Muốn thấy cá phải nh́n nước”. Chỉ cần chiêm nghiệm một câu đó thôi th́ thấy cả chân lư và phong thái sống trong đời.

Thấy cá là thấy một. Thấy nước là thấy một. Thấy hai cũng trật, mà thấy một cũng sai. Cho nên tất lả lư thuyết nào nói rằng do một mà sinh ra tất cả, tôi cười. Không có một ông Thượng đế nào sinh ra vạn vật. Tôi sống trong cuộc đời không đóng đinh chữ Một vào óc. Tôi không quỳ lạy trước Một cho nên tôi tan hoà trong Tất cả.

Mà làm sao tôi thấy Một được khi ngây ngất với đoá hoa hồng của tôi? Màu hồng thắm nơi cánh hoa do đâu mà có? Nếu cánh hoa khoe rằng nó là chủ của sắc màu th́ mặt trời sẽ giận: không có ánh nắng, hoa lấy sắc thắm ở đâu? Nếu mặt trời đắc thắng bảo, nó là chủ của màu hồng, th́ hạt mưa sẽ không bằng ḷng: không có mưa làm ǵ có hoa? Nhưng ai dám bảo mưa là chủ: không có mây làm ǵ có mưa?

Tất cả vạn vật sẽ đi kiện nhau, nếu ai cũng cho ḿnh là chủ: sông nước kiện mây, bởi v́ không có hơi nước th́ làm ǵ có mây? Không khí chuyển động kiện hơi nước, bởi v́ hơi nước làm sao bốc lên trời được nếu không có chuyển động không khí? Trong chuỗi kiện cáo liên miên bất tận không đầu không đuôi đó, nếu có một ông thượng đế tự đứng ra làm quan toà tối cao để phân xử và cười khà phán rằng ta đây mới thật là chủ, th́ vụ kiện vẫn chưa yên đâu, bởi v́ có kẻ sẽ đứng ra kiện ông thượng đế: kẻ đó là tôi.

Tôi kiện, v́ nếu không có tôi th́ làm ǵ có ông? Không có tôi run sợ, khép nép, làm ǵ có ông là giải pháp tối cao? Tôi lả chủ, ông là khách. Lịch sử ở phương Tây này có ǵ khác đâu là lịch sử kiện cáo giữa con người với ông. Có nhiều lúc con người ngạo nghễ: “Thượng đế chết rồi!”. Có lúc ông hát khải hoàn ca: “Thượng đế phục thù!”. Thế th́ ông là chủ, người là khách?

Tôi thấy quan hệ đấu tranh giữa con người với ông ở phương Tây này mệt quá, trong khi đoá hoa hồng nơi vườn tôi b́nh yên nở cánh. Mời ông xem, nơi nó có tất cả vạn vật, và tất cả vạn vật tụ lại trên nó. Nó không là chủ của ai, không ai là chủ của nó, mà cũng không ai là chủ của ai.

Vứt hết ư niệm một, vứt hết ư niệm hai, vứt luôn cả ư niệm vừa một vừa hai, vứt hết, rồi hăy tưởng tượng mà xem: không có sự giao tế nào đẹp hơn giữa người với người, bởi v́ ai cũng là chủ và không ai là khách. Đó là sự giao tế giữa trăng với nước. Trăng lên, nước không mời, trăng cũng đến chơi; và trăng là nhà của nước, nước là nhà của trăng. Nước xao th́ trăng vỡ, nước lặng trăng tṛn. Ném ḥn sỏi xuống, một tia nước rơi vào lá cỏ: trong hạt nước đọng trên lá vẫn có nước, vẫn có trăng. Trăng nhởn nhơ trong nước, nhưng trăng không ướt; về khuya, nước cũng không làm trăng lạnh.

Anh Cường đến chơi với chúng ta, áo anh khô và người anh ấm. Tiếp anh, tôi xin đọc một bài thơ mà chúng ta đă học từ thuở lớp nh́, lớp nhất. Thuở ấy, thầy giáo cắt nghĩa cho tôi khác, bây giờ tôi hiểu với một tinh thần khác. Tôi lăng nhăng nói trăng nói cuội năy giờ cũng chỉ để đọc bài thơ kia với tinh thần này mà thôi. Bài thơ của Nguyễn Khuyến mà ai cũng thuộc:

Đă bấy lâu nay bác đến nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
Cải chửa ra cây cà chửa nụ
Bầu vừa rụng rốn mướp đang hoa
Đầu tṛ tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta.

Nguyễn Khuyến là nhà Nho, chưa chắc ông đă thông Hoa Nghiêm với Bát Nhă. Nhưng bài thơ là một chữ Không láu lỉnh trong một chữ Có tài t́nh. Là chủ, ông vứt hết tất cả những ǵ khiến ông là chủ, khiến bạn là khách; vứt hết ư niệm tiếp đăi, lễ tân, khiến đó là đó, đây là đây. Trẻ con, chợ búa, cá mú, gà lợn, cải cà, bầu bí, cau trầu, càng lo lắng chu toàn những phiền hà đó bao nhiêu th́ khoảng cách khách chủ càng xa bấy nhiêu. Tiếp bạn đâu không thấy, chỉ thấy xa bạn, bạn chưa đến mà đă ra đi rồi.

Vứt khoảng cách đi th́ chẳng c̣n ai tiếp ai nữa, chỉ c̣n thấy phơi phới ta với ta, chẳng biết ta nào là ta nào, hai ta đấy chăng hay chỉ một ta hoá hai, hai ta nhập một. Tinh tuư của Lăo Trang bất chợt gặp tinh tuư của thiền: vứt đi hết để đến cái rỗng không th́ thấy được cái tự nhiên trong đó con người ung dung, thảnh thơi, tiêu dao, phóng khoáng, rong chơi như gió thổi qua nhà trống.

Tôi xin chắp tay nhờ các bậc cao minh chỉ giáo cho tôi hướng đi của Phật giáo vào thế kỷ mới. Riêng tôi, tôi không mơ tưởng chuyện lớn; tôi ước ao sống với Phật trong từng chuyện vặt. Chuyện anh Cường đến chơi. Chuyện bài thơ Nguyễn Khuyến. Tôi thấy chuyện vặt nhiều khi làm tôi gần Phật hơn là đại ngôn. Từ ba chữ ta với ta của ông Nguyễn Khuyến chẳng hạn, tôi suy ra được khối chuyện.

Ví dụ: hăy “ta với ta” trước hết với ta. Trong cuộc sống cam go giữa xă hội phiền toái này, tôi không phải chỉ một tôi mà trăm ngàn tôi, nghĩa là trăm ngàn cái lưng, trăm ngàn cái lưỡi, trăm ngàn nụ cười ruồi. Cười trung cười nịnh một hồi, riết rồi tôi biến thành tôi của người, không thấy đâu nữa tôi của tôi. Đối với chính tôi tôi đă là khách rồi, làm sao tôi khỏi là khách đối với anh Cường? Anh Cường cũng vậy, anh đă là khách của anh, làm sao anh khỏi là khách đối với tôi?

Và cứ như vậy, chúng ta chỉ là khách của ḿnh và khách của nhau; ngồi ở đây chỉ toàn là khách với khách. Khách với khách bàn chuyện “phát triển Phật giáo”, hoá chẳng phải là bàn về chuyện của một khách khác hay sao? Tôi đề nghị thế này: cứ mỗi lần chúng ta uốn lưng, uốn lưỡi, uốn nụ cười ruồi, hăy tưởng tượng ra rằng, Phật đang dùng tuệ nhăn nh́n chúng ta và cười kh́. Không chừng nghe Phật cười kh́ mà ḿnh chợt tỉnh ra và bắt đầu tống khứ người khách ra khỏi ḷng để trở lại làm ta của ta.

Ai cũng biết chuyện con khỉ Tôn Hành Giả: nó nhổ một sợi lông, thổi một cái, biến thoắt ra trăm ngàn con khỉ đánh nhau với yêu quái. Cái hay của con khỉ họ Tôn là từ một sợi lông, nó biến ra trăm ngàn con khỉ rồi lại trở về với một con khỉ, là chính nó. Nó là trăm ngàn bởi v́ nó là nó. Ta nhổ hết lông cũng chẳng hạ được con yêu nào, bởi v́ ta chẳng là ta. Hiện tại sao mà ai nấy lăng xăng làm đủ mọi chuyện, trừ có mỗi một chuyện thôi là chuyện tu. Nói phát triển làm ǵ cho mệt, khi từ cái bước đầu ta đă tự ḿnh xa ḿnh ngh́n trùng!

“Ta với ta”, thứ hai, là với gia đ́nh. Đó là chuyện tôi làm hằng ngày với vợ con, và thú thực không phải lúc nào cũng thành công. Nhưng làm hoài, ngă rồi đứng dậy, làm nữa.

Thứ ba, tôi đang “ta với ta” với anh Cường, và với tất cả các bạn ở đây. Và thưa anh, giá như Giáo hội của chúng ta cũng “ta với ta” với nhau th́ vui biết mấy!

Cứ thế, trong tinh thần đó, hăy “ta với ta” với những vấn đề cao siêu nhất của thời đại. Lư thuyết về nhân quyền chẳng hạn. Quan niệm cá nhân như một chủ thể tối thượng là quan niệm của Tây phương. Người chủ thể tối thượng là một người đơn độc, bởi v́ đứng cao nhất th́ đương nhiên là đứng một ḿnh.

Tôi không muốn đứng trên, tôi muốn đứng với. Không có ai nhào nặn ra tôi rồi chỉ vào tôi tuyên bố: nó là tối thượng. Từ bản thân, tôi đă là một mớ tương quan chằng chịt, làm sao tôi quan niệm đuợc tôi ngoài những tương quan, nghĩa là ngoài chữ “với”? Không có triết lư nào dạy tôi hiểu ư niệm b́nh đẳng hơn là đạo Phật. Phật không dạy tôi chữ trên, Phật dạy tôi chữ trong: chân lư là ở trong tôi, chỗ đứng xă hội của tôi là ở trong mọi người.

Tôi không ở trên, cho nên tôi không đi ra; tôi ở trong cho nên tôi đi vào. Vào trong tôi và vào với mọi người. Đi ra th́ mất, th́ là khách. Đi vào là được, th́ là chủ. Tất cả đều đi vào với nhau, ở trong nhau, và không ai ở trên ai. Đó là mối tương quan giữa con người với quyền lực.

Tôi nghĩ đó không phải là nói suông cho vui miệng. Lư tưởng của mọi người cầm quyền há chẳng phải đừng là khách mà cũng đừng là chủ của nhân dân đó sao?

Và nếu bây giờ anh Cường hỏi tôi: vậy th́ tương quan giữa Phật giáo và lănh đạo chính trị hiện tại nên như thế nào? Tôi sẽ nói với anh: th́ ta với ta!

Cao Huy Thuần (Theo Văn hóa Phật giáo số 53)