NHÂN MÙA VU LAN
Ðọc lại
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Của Nguyễn Du
Nguyễn Châu
NGUYỄN DU là một tác giả Việt Nam đã được thế giới biết đến từ hơn 100 năm nay qua tác phẩm thơ trường thiên, đó là TRUYỆN KI"U Văn chương và tư tưởng trong truyện Kiều đã được tìm hiểu, phân tích... và hầu hết đều đã công nhận đây là một tác phẩm tuyệt tác. Truyện Kiều đã trình bày một nhân sinh quan nhân bản bao dung định mệnh và con người. Nguyễn Du đã dành phần quyết định cho con người về cuộc đời chứ không hoàn toàn phó thác cho thiên định :
"Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều"
hoặc:
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Thi hào Nguyễn Du đã kết thúc truyện Kiều bằng quan điểm Phật giáo "Vạn pháp duy tâm tạo" (mọi nguyên lý và hệ quả trong cuộc đời đều do lòng người làm nên) và tin tưởng rằng con người có thể dùng "TÂM" để chuyển hóa cuộc đời.
Vì "Vạn pháp" do tâm sinh cho nên:
"Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa"
Có lẽ từ ý niệm này mà Nguyễn Du đã viết nên bài
"Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" để chiêu hồn mười loại chúng sinh trong ngày rằm tháng bảy âm lịch được truyền thống dân tộc Việt Nam xem như là ngày "Xá tội Vong Nhân" nghĩa là ngày mà các linh hồn của những người khi sống đã làm nên tội bị giam giữ, bị hình phạt trong các tầng địa ngục...được ân giảm và ân xá để đi đầu thai vào cõi khác (theo giáo lý Phật).Bài văn
"Chiêu hồn thập loại chúng sinh" là một áng văn quốc âm nổi tiếng về văn chương và ý nghĩa, nhưng lại ít được biết đến.Thật vậy, về văn quốc âm, tức là văn viết bằng tiếng Việt, chữ nôm (tức là cách ký âm tiếng Việt bằng chữ Trung Hoa qua sự cải biến do ông Nguyễn Thuyên khởi xướng), Nguyễn Du có bốn tác phẩm được lưư truyền, đó là:
1.- Truyện Kiều
2.- Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh
3.- Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu
4.- Thơ Thác Lời Trai Phường Nón.
Nhân Mùa Vu Lan, chúng tôi xin đọc lại bài văn
CHIÊU HỒN THẬP LOẠI CHÚNG SINH của thi hào Nguyễn Du để cùng chia sẻ những nỗi đau thương của những kiếp người, những thân phận thiếu may mắn trong cuộc đời tự ngàn xưa đã "buồn nhiều hơn vui"...Bài văn Chiêu Hồn đã được truyền tụng trong dân gian một cách rộng khắp có lẽ do các mùa và lễ Cúng Cô Hồn, khi làm lễ Cầu Siêu tập thể. Bài văn có một số tên không giống nhau: một bản đề là Bài Chiêu Hồn (in năm 1926); một bản đề là
"Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" (Lê Thước, Văn Hóa Hợp Tuyển (1960 và 1963); một bản lấy tên là Văn Chiêu Hồn (1965); một bản là Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sinh (Ðàm Quang Thiện).Chúng tôi thấy nội dung của bài văn là gọi hồn và thương xót cho những sinh linh đau khổ trong cõi âm do đó có thể chọn cái tên là Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh để tiện tìm hiểu. Bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh dài tất cả là 184 câu, làm theo thể song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ kết hợp nhịp nhàng giữa thất ngôn và lục bát tạo nên nhiều cung bậc trầm bổng bi hùng rất dễ ngâm hay hát...
Sau đây là nguyên bản:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh lẽo xương khô
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Ðường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn có nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa mấy năm...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ cùng về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Ðoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đón khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu ?
Trên lầu cao dưới dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Ðau đớn nhẽ không hương không khói
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son sống thác ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Ðã đêm Quản Nhạc lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Nghìn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu ?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Ðổi mình vào lấy ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Dãi thây trăm họ làm công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi trường sa thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết nơi chốn nào ?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai ?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân có cũng như không
Sống thời tiền chảy bạc dòng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ ra bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Tàn hương giọt nước biết tìm vào đâu ?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng kiêng khem
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha hương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Ðem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Ðòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao ?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu ngìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa.
Ðau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu ?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi ?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào ?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân lồi.
Ðàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Ðộ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Nội dung Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước
từ cái chết. Tuy
"mỗi người một nghiệp khác nhau" nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là "kẻ trước người sau mà thôi"Cầu Nại Hà là gì? Tại nơi nào ? Theo sách Phật, cầu Nại Hà ở về phía Ðông của Thập Ðiện (tức mười tầng Ðịa Ngục), những người nghèo hèn và chết yểu (chết trẻ) đều phải đi qua cầu này để vào đường đầu thai sinh vào kiếp khác. Nại Hà là tên con sông ở Ðịa Ngục có ba cái thác nhỏ, linh hồn các tội nhân khi đến đây phải hỏi xem nơi nào có thể lội qua được để khỏi trầm luân nên gọi là Nại Hà.
Con người khi sống trong xã hội thì có phân biệt cao thấp sang hèn nhưng khi chết thì đều bình đẳng! Nhất là chết mà trở thành cô hồn:
"Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người!
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngủ"
Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh
"trường dạ tối tăm" bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sanh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhaụ Nói là "thập lọai" nhưng bài văn đã kể ra cả thảy 16 nghiệp cảnh. Chữ "mười" ở đâykhông phải là số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, tòan vẹn như trong cách nói
"mười phân vẹn mười", "nhân vô thập toàn"...Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế là:
"tính đường kiêu hãnh" tham danh vọng mà quên mạng sống.1.- Những kẻ
Nêu ra cảnh khổ của cõi âm Nguyễn Du muốn cảnh giác cõi dương là nơi mà cuộc tranh dành lợi danh, tiền của thường rất gắt gao và hung hãn... Tác giả nhắc cho mọi người thấy rõ rằng:
"Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi"
Và cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ phép Phật mà thoát khổ. Lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thóat trong luân hồi.
Văn tế Thập loại Chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian đáng cho mọi người suy gẫm... trong ngày Ðức Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Ðịa Ngục để báo hiếu.
Nguyễn Châu