THỜI KỲ THỨ NHẤT:

 

LỤC H̉A TỊNH LỮ

 

Hai năm sau khi xuất gia tức năm 1924, bước vào tuổi 19, tôi mới được học về phần nghi thức tụng niêm lễ bái thông thường hằng ngày. Song nhờ được học ít chữ Hán từ trước nên cũng hiểu đại khái đôi chút nghĩa lư trong các kinh sách và các bài tụng niệm mà tôi đă học.

 

Tôi nhận thấy tinh thần Phật giáo rất thiết thực, lợi ích cho tất cả chúng sinh trong đời hiện tại và vị lai như bài phát nguyện trong khóa lễ buổi sáng sớm có câu: "Tật dịch thế nhi hiện vi dược thảo cứu liệu trầm kha, cơ cận thời nhi hóa tác đạo lương tế chư bần nỗi, đăn hữu lợi ích vô bất hưng sùng". Nghĩa là: "Gặp lúc người đời bị đau ốm nặng, nguyện hóa ra thuốc men để cứu chữa, khi nhân dân đói khổ, nguyện hóa ra lúa gạo để giúp đỡ, bất cứ việc ǵ đem lại lợi ích cho chúng sinh đều làm cả.". Nguyện thứ 11 trong Kinh Dược Sư: "Nếu những chúng sinh bị đói khát khổ năo, v́ t́m kiếm miếng ăn mà phải gây ra tội ác, trước hết ta hăy đem các thứ ăn uống rất ngon lành làm cho thân thể được no đủ rồi sau mới đem những phương pháp mầu nhiệm dạy bảo cho được hoàn toàn sung sướng yên vui". Kinh Địa Tạng dạy: "C̣n có chúng sinh nào ở nơi khổ năo (địa ngục) th́ ta không thành Phật v.v...".

 

Trên đây chỉ trích dẫn vài ba câu chứ chưa nói đến nghĩa lư cao sâu mầu nhiệm trong thiên kinh vạn quyển vốn không thể nào tả xiết cho được. Song rất tiếc là đọc tụng toàn bằng Hán văn nên có nhiều người đọc tụng hằng ngày cho đến thuộc ̣ng mà không hiểu nghĩa lư ra sao, không biết đọc tụng để làm ǵ. Trừ một số rất ít các vị cao tăng trí thức, c̣n phần đông tự ḿnh không hiểu thấu nghĩa lư chân chính để tu hành tự lợi và giáo hóa cho người giác ngộ. Như thế th́ làm ǵ mà không đưa nhau vào con đường mê tín dị đoan, làm ảnh hưởng xấu cho toàn thể Phật giáo?

 

Cứ xem ngay h́nh thức của Phật giáo hiện nay. Tuy mỗi làng có một ngôi chùa, có làng tới hai, ba, bốn, năm ngôi; trừ những nơi danh lam cổ tự ra, c̣n hầu hết đă biến tướng rất nhiều, không c̣n thuần túy là Phật giáo nữa. Từ nơi thờ phụng cho đến nghi thức lễ bái, không đâu giống đâu. Không những thờ Phật, Bồ tát mà c̣n thờ tất cả Thánh Thần; thậm chí có nơi c̣n thờ cả hổ, rắn, chó đá, b́nh vôi v.v... ; trong nhà không thờ hết đem ra cả ngoài sân, gốc cây.

 

Nếu có các bậc trí thức hay người ngoại quốc nào tới tham quan, khảo cứu và hỏi vị trụ tŕ ở những nơi đấy th́ không biết vị trụ tŕ ấy sẽ trả lời ra sao? Có những cảnh tượng đáng tiếc này chẳng qua cũng chỉ v́ đa số Tăng, Ni thất học. V́ thế cần phải nhanh chóng chấn chỉnh lại. Nếu không, tinh thần Phật giáo không bao lâu nữa sẽ đi đến chỗ diệt vong. Muốn duy  tŕ Phật giáo, muốn bảo tồn tinh thần dân tộc th́ trước hết làm thế nào trong giới Tăng Ni phải có nhiều người đủ tài đức để duy tŕ việc hoằng hóa; phải trừ sạch những điều mê tín dị đoan đă pha trộn vào Phật giáo như tệ hại về vàng mă, đồng bóng chẳng hạn. Phải làm cho t́nh thần từ bi, trí tuệ, b́nh đẳng, dũng mănh, tinh tiến của Phật giáo được phát huy để bồi bổ cho tinh thần Dân tộc Việt Nam đă có từ ngàn xưa như đời Đinh, Lê, Lư, Trần chẳng hạn. Những thời đại Phật giáo thịnh hành th́ khí thế Dân tộc Việt Nam lúc ấy như thế nào? Ai là người hiểu biết đều rơ.

 

Muốn khôi phục lại những lợi ích chân chính, muốn cải cách, bài trừ những tệ hại dị đoan đă ăn sâu vào trí năo của dân chúng, trở thành tập quán lâu đời, nhất là đối với những người chỉ biết tín ngưỡng mà không chịu suy xét là cả một vấn đề nan giải. Thật không phải là việc mà một, hai người trong một thời gian ngăn ngủi có thể làm xong được.

 

Trải qua bao đời, khắp thành thị đến thôn quê, từ trên rừng xuống dưới biển, ngay đến thâm sơn cùng cóc, không đâu là không có người tin theo Phật giáo. Nay muốn chấn hưng Phật giáo mà không vận động, kết hợp được đại đa số quần chúng đồng tâm hiệp lực, kiên tŕ chấn chỉnh, tổ chức cho có quy củ, hệ thống hẳn hoi, tất không thể nào thành công được. Cũng có người bảo: Hệ thống tổ chức của Phật giáo xưa nay vẫn có các sơn môn đời đời nối dơi cho tới ngày nay, như thế chả bền vững là ǵ?

 

Xem bề ngoài th́ có thế thật. Song xét kỹ đến thực chất bên trong th́ lại khác hẳn. T́m hiểu sâu vào vấn đề sơn môn ta sẽ thấy không có ǵ là vững chắc. Như nhiều người đă thấy: Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, hễ có người đủ tài, đủ đức, được quần chúng tôn sùng ngưỡng mộ th́ ở đấy sơn môn được h́nh thành. Nhưng, nếu ở đấy không có người tài, đức kế tiếp th́ sẽ dần dần đi đến chỗ tuyệt tích!

 

Nay muốn cải tổ cần có phương hướng, mục đích, có tổ chức sâu rộng vững chắc, cần được tất cả các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, ủng hộ mới mong có kết quả thành công. Muốn thế, ban đầu cần phải lập thành một hội công khai có phép tắc hẳn hoi mới dễ bề hoạt động và phát triển.

 

Với suy nghĩ như vậy, từ đấy, ngoài thời giờ học tập, những lúc có việc đi đâu, nhất là đến các đám hội hè hay giỗ tổ, có đông đủ các vị Tăng Ni, tôi đều đem ư kiến về việc chấn hưng Phật giáo nuớc nhà ra trao đổi. Kiểm điểm lại, trong suốt thời gian sáu năm (1924-1929), ư kiến chấn hưng Phật giáo được rất nhiều vị đồng ư tán thành, cho là nếu làm thành việc này th́ không c̣n ǵ bằng. Song, các vị cũng nhận định rằng đây là việc rất khó, phải làm thế nào được các cơ quan trên giúp đỡ mới thành tựu được. Chính đức Phật Thích Ca lúc sắp thị tịch cũng c̣n phó chúc cho quốc vương, đại thần ngoại hộ Phật pháp, huống chi bây giời đương ở vào thời kỳ mạt pháp: Phật cao một thước, ma cao ngh́n trượng, người làm th́ ít kẻ phá th́ nhiều. Nếu không, có thể bị người ta ghép tội hoạt động hội kín, lại càng nguy hiểm cho các sư. Do vậy, có nhiều vị có ḷng hưởng ứng nhưng không dám làm theo.

 

Thế là nhiều vị tỏ vẻ lo sợ. Chính Sư cụ - Thầy nuôi tôi, thấy tôi hay bàn đến việc này, cũng thường nói với các sư: "Chú ấy (tôi) học hành và chí khí xem cũng khá nhưng không khéo sẽ nguy cho chú ấy".

 

Vận động với các vị trên suốt năm, sáu năm rồi vẫn không thấy kết quả: Chưa có vị nào chịu đứng ra xây dựng. Chẳng lẽ việc có lợi ích chung cho toàn thể, việc cần phải làm mà đành phải chịu buông bỏ? Như người khát nước ra tới bờ sông, không lẽ lại chịu đứng nh́n ṛi quay trở về? Đương khi nghĩ ngợi, tôi sực nhớ đến câu: "Đương nhân bất nhượng ư sư.". Câu này có nghĩa: Việc phải làm, việc tốt, việc nhân nghĩa, việc lợi ích, việc cần làm th́ dù là người đệ tử cũng không nhường thầy.

 

Từ đấy chúng tôi quyết chí t́m phương cách thành lập Hội Phật giáo. Nhưng nếu không có phép tắc hẳn hoi th́ rất dễ bị ghép tội hoạt động bất hợp pháp và sẽ dẫn đến tan vỡ. Bấy giờ chúng tôi phỏng theo lối tổ chức Hội Liên xă ở các sơn môn vẫn có xưa nay. Đại ư: Góp mỗi người một ít tiền làm vốn cho vay, hằng năm trích ra một số lời để làm một tuần lễ siêu tiến tứ ân phụ mẫu, Chỉ có thế thôi.

 

Có điều khác là chúng tôi không lấy tên hội. V́ từ "hội" có vẻ to tát quá, nên chúng tôi lấy tên là "Lục ḥa tịnh lữ"; có nghĩa là những người trong sạch làm bạn cùng nhau, tu theo Sáu phép ḥa thuận của đức Phật:

 

1. Thân ḥa đồng trụ: Thân ḥa cùng ở (sống chung tập thể)

2. Khẩu ḥa vô tránh: Nói năng ḥa nhă, không tranh căi nhau.

3. Ư ḥa đồng duyệt: Một ḷng một dạ không trái ư nhau.

4. Kiến ḥa đồng giải: Hiểu biết thông cảm nhau.

5. Giới ḥa đồng tu: Giữ chung một kỷ luật.

6. Lợi ḥa đồng quân: Có ǵ chia đều nhau cùng hưởng.

 

A) Mục đích

 

1) Khuyến khích, giúp đỡ nhau về đường tu học.

2. Giúp đỡ nhau trong các công việc cần thiết như khi có sư trưởng, phụ mẫu mất, cùng giúp nhau trong việc làm chùa, tô tượng, đúc chuông v.v...

 

Mỗi khi đồng đạo có việc ǵ, người nào có việc ǵ th́ tất cả mọi người đều coi như là việc của ḿnh, có trách nhiệm trông coi, lo liệu về mọi phương diện, tận tâm, tận lực làm cho thành tựu mà không quản ngại nề hà ǵ.

 

B) Tổ chức

 

Tùy theo địa phương như ở sơn môn hay địa phương nào có từ năm đến mười lăm người th́ thành lập riêng một đoàn, nhiều nhất là hai mươi người. Nếu quá hai mươi người lại chia làm đôi để dễ dàng đi lại, liên lạc với nhau. Khi người nào có công việc ǵ th́ tất cả những người trong địa phương ấy trực tiếp lo liệu giúp đỡ mọi việc, c̣n ở các nơi khác chỉ cử đại biểu đến thôi.

 

C) Tài chính

 

Mỗi người góp 5 đồng một năm, chia ra đóng làm bốn kỳ: Tháng giêng 2 đồng, tháng tư 1 đồng, tháng tám 1 đồng và tháng mười một 1 đồng. Ở đâu giữ riêng ở đấy. Khi người nào có việc như trên th́ trích ra 5 đồng để mua lễ vật và làm một đôi câu đối mừng hoặc viếng. Chỉ trong phạm vi 5 đồng này thôi. Lạc khoản câu đối đề là "Lục ḥa tịnh lữ kính mừng (hay kính viếng)" để tiêu biểu cho tổ chức của đồng bạn.

 

Đóng góp mỗi năm có 5 đồng mà phải chia ra làm bốn kỳ là v́ thời bấy giờ chúng tôi c̣n làm tiểu ở với thầy, phải ḅn dần từng xu, từng hào do các vị trên mừng tuổi hoặc cho mới có; hay đi cúng được tiền hồi hướng chẳng hạn.

 

Bấy giờ ở sơn môn Tế Xuyên huyện Lư Nhân, Hà Nam chưa được các vị trên hưởng ứng, chỉ mới có tôi là người nhiều tuổi nhất (25 tuổi). C̣n các sư bên dưới, có người mới có 15 hoặc 18 tuổi chẳng hạn. Lúc đầu, thấy chúng tôi làm, các vị trên, có nhiều vị c̣n chế giễu là "Hội trẻ con, hội chấp tác" (lao động phục vụ). V́ chúng tôi không nề hà ǵ khi đồng bạn có việc.

 

Mỗi khi có việc chỉ chi tiêu có 5 đồng. Số tiền c̣n lại chủ yếu dùng để thỉnh kinh sách và giúp đỡ nhau trong việc học tập như giúp đỡ những người đi học xa mà thiếu thốn.

 

Dần dần, thấy chúng tôi làm việc tích cực, có kết quả trong vài đám, các vị trên cũng có vị hoan hỷ tán thành, hưởng ứng, tham gia như Thượng Tọa Thái Ḥa; Sư cụ Thông Thuận ở chùa Hà Mặc; Sư cụ Thanh Lạc ở chùa Vị Hà, B́nh Lục; Sư cụ Thanh Lịch, hiện nay ở chùa Hải Trung, Hải Hậu, Nam Hà. Dần dần lan sang Hưng Yên, Thái B́nh, Nam Định; không những riêng bên Tăng mà có nhiều vị bên Ni giới cũng hưởng ứng, tham gia.

 

Bấy giờ chúng tôi chuyên theo học Ḥa thượng Phổ Hài ở chùa Tế Cát (Hà Nam). Những lúc thư nhàn tôi đem việc này thưa lên Ḥa thượng. Lúc đầu, Ḥa thượng nghĩ là khó, không thể làm được, cho rằng tôi không đủ sức và Ḥa thượng khuyên: "Hăy chịu khó học nhiều đi đă.". Nhưng dần dần Ḥa thượng cũng hoan hỷ. Chúng tôi liền thỉnh Ḥa thượng làm chứng minh cho công việc, được Ḥa thượng chấp thuận.

 

Từ đấy, tên "Hội trẻ con và chấp tác" dần dần biến mất và càng ngày càng có nhiều vị hưởng ứng. Năm 1931, được tin Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học thành lập ở Sài g̣n, xuất bản báo Từ Bi Âm, chúng tôi liền mua đọc. Thấy trong báo nói có mở trường Phật học để đào tạo các sư thanh niên, tôi liền viết thư vào hỏi điều kiện nhập học như thế nào. Được ít lâu, trong ấy trả lời: "Lúc đầu chưa tổ chức được đầy đủ nên chỉ mới nhận những học sinh là đệ tử của những vị hội viên mà thôi.". Chúng tôi liền trích tiền quỹ ra đóng cho Ḥa thượng Phổ Hài gia nhập Hội để lấy đường gửi người vào học sau này. Nhưng chờ măi vẫn không thấy tin trường mở cửa.

 

Năm 1932, lại được tin Hội An Nam Phật học thành lập ở Huế và xuất bản báo Viên Âm, tiếng vang khắp trong nước. Lại nữa, các báo chí ở Hà Nội cũng luôn luôn nhắc tới việc chấn hưng Phật giáo. Đọc những tin tức đó, chúng tôi càng hồi hộp, phấn khởi và tin tưởng rằng ước mơ từ lâu của chúng tôi chắc chắn sẽ thành hiện thực. Từ đấy, chúng tôi lại càng tích cực đi cổ động khắp các nơi, đem cả báo chí đọc cho các Ḥa thượng cùng Tăng Ni. Các vị ấy rất hoan hỷ. Nhiều vị ước mong ngoài Bắc ta cũng mau chóng thành lập được hội Phật giáo. Chúng tôi lại đem công việc mà Lục ḥa tịnh lữ làm được thưa cùng các vị. Nghe xong, ai nấy đều hoan hỷ tán thành và hỏi bản quy tắc để các vị tổ chức ngay tại địa phương của ḿnh.

 

Khi lên Hà Nội, vào thăm các chùa danh tiếng như Bà Đá, Ḥe Nhai, Liên Phái v.v... chúng tôi đều tŕnh bày việc chấn hưng Phật giáo. Nhưng bấy giờ chúng tôi c̣n nhỏ lại vào các chùa lớn nói những việc mới lạ nên có nhiều vị tỏ ư khinh rẻ,cho là viển vông. Các vị ấy nói: "Phật giáo vẫn hưng thịnh, chùa vẫn làm, tượng vẫn tô, chuông vẫn đúc, khách thập phương vẫn đi lại đông đúc, tấp nập vui vẻ, có ǵ sứt mẻ đâu mà phải chấn hưng?". Phía tán thành tuy có nhưng rất ít, không bằng các tỉnh nhỏ. Do đó, chúng tôi quay ra t́m sự hợp tác của phía cư sĩ (tại gia).

 

Đọc báo trung Bắc Tân Văn thấy có ông Lê Toại thường đăng các bài nói về việc chấn hưng Phật giáo, chúng tôi hỏi thăm về ông ta, được biết ông đang làm việc tại Sở Đốc lư – Hà Nội, là người rất thành tâm mộ đạo Phật. Ông đọc sách Phật bằng Pháp văn và Hán văn, có dịch và xuất bản cuốn Phật học sơ giải. Chúng tôi bèn t́m đến thăm ông. Mới gặp nhau lần đầu, vừa trao đổi ư kiến đă thấy ư hợp tâm đầu. Ông đưa chúng tôi tới thăm ông Trần Văn Giác, người Trà Vinh, Nam Bộ, ra làm việc ở Sở Thương Chính – Hà Nội. Cả hai vợ chồng đều là người rất mộ đạo Phật, có thờ Phật tại nhà, đều ăn chay và cũng là hội viên Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học. Kế đến, chúng tôi được gặp ông Nguyễn Hữu Kha (Thiều Chửu). Ông là con cụ cử ở Đông Tác. Bấy giờ ông đă ngót 30 tuổi mà vẫn không lập gia đ́nh, rất chăm chỉ học Phật và đang dịch bộ Phật học đại từ điển. Mới gặp nhau mà h́nh như đă quen từ bao nhiêu đời trước. Vừa nói đến việc chấn hưng Phật giáo th́ ông liền tán thành. Một hôm, ông cùng chúng tôi đến gặp ông Vũ Đ́nh Chung, nhà ở phổ Ngô Trạm – Hà Nội, hiện dang làm Hội trưởng Hội Đông Dương liên hữu tương tế (Hội Ái hữu công chức). Ông cũng là người giao thiệp rộng và hay làm việc nghĩa. Khi gặp nhau, chúng tôi nói về việc vận động chấn hưng Phật giáo, ông rất vui vẻ, tán thành và hứa sẽ hết sức phục vụ cho công việc được mau đạt kết quả. Ông c̣n hứa sẽ vận động trong Hội Đông Dương liên hữu tuơng tế của ông v́ Hội này cũng có rất nhiều người tin theo đạo Phật, nhất là các bạn ở Miên, Lào.

 

Sau một thời gian đi lại, trao đổi, chúng tôi soạn thảo điều lệ để chuẩn bị xin phép lập hội. Bấy giờ thường hay hội họp ở nhà ông Chung. Khi thảo thành điều lệ chung, chúng tôi cũng có bạch với tất cả các cụ Ḥa thượng, chư Tăng ở Hà Nội. Bấy giờ, có cụ Đinh Quang Lạc trụ tŕ chùa Vũ thạch ở Hà Nội là người giao thiệp rộng vào bậc nhất. Cụ thân với cả Đốc lư và Hoàng Trọng Phu cùng các quan lại khác nên cụ nói ǵ tất cả các sư ở Hà Nội đều tin theo hết.

 

Ngay khi mới tới Hà Nội, tôi đă đến ngay chùa Vũ Thạch, đem việc này bàn với cụ. Cụ rất niềm nở và tiếp đón rất nồng hậu. Tuy nhiên, bề ngoài th́ cụ hết sức tán thành nhưng trong thâm tâm th́ t́m mọi cách ngăn trở không cho thành lập. Cụ thường nói rằng việc này để hỏi ư kiến cụ lớn Vơ (Hoàng Trọng Phu) và cụ Thiếu Nguyễn (Nguyễn Năng Quốc) xem các cụ báo sao đă.

 

Chúng tôi kiên tŕ đi lại vân động, chờ đợi măi mà vẫn không thấy tia hy vọng nào. Cuối năm 1932, chúng tôi cương quyết tiến hành, bèn họp nhau tại nhà ông Vũ Đ́nh Chung, cùng kư tên vào bản điều lệ để xin phép và bầu ông Chung làm Hội trưởng. Tin này vừa truyền ra, lập tức Sư cụ chùa Vũ Thạch triệu tập tất cả sư trong các sơn môn ở Hà Nội về chùa Bà Đá để bàn việc đối phó, ngăn cản, quyết không cho chúng tôi thành lập hội. Các cụ cho rằng nếu để cho hội Phật giáo thành lập sẽ khó cho các sư. Bấy giờ chúng tôi vẫn đi lại cả hai bên: Cả bên thuận và bên chống. Sau đấy vài hôm, tôi đến chùa Vũ Thạch. Xem ư bên trong cụ không bằng ḷng nhưng bề ngoài cụ vẫn tỏ vẻ niềm nở. Vừa gặp tôi, cụ nói: "A! Sư huynh đă đến. Việc này chắc sư huynh biết rơ. Ḿnh phải ngăn họ, không thể để cho họ quấy rối đạo Phật của ḿnh được...".

 

Biết ư sự đối kháng của cụ đă lên tới cao độ nhưng tôi vẫn tỏ vẻ b́nh tỉnh, nói: "Bạch cụ con vừa ở Hà Nam lên, chưa biết việc ǵ cả. Vậy, có việc ǵ xin cụ hoan hỷ cho con biết.".

 

- Sư huynh chưa biết thật à? Nghe nói bọn mấy người họ đă kư tên vào bản điều lệ để xin phép lập hội Phật giáo rồi đấy.

 

- Con tin chắc việc này thế nào họ cũng phải thưa với chư Tăng nhất là với cụ chứ? Nếu không th́ họ làm với ai? Ai là người theo họ?

 

- Có, có. Họ vẫn đến luôn. Nhưng tôi vẫn bảo họ là để tôi hỏi lại ư các cụ lớn xem sao đă. Chưa đâu ra đâu cả mà họ đă hấp tấp như thế, không khéo sẽ phải ăn cơm nắm cả lũ cho mà xem (đe là sẽ cho vào tù). Sư huynh có thể t́m hiểu xem công việc của bọn họ làm thế nào, về đây cho tôi biết th́ hay lắm.

 

Tôi lại trở về bàn với bên thuận. Chúng tôi nhận định: Phản ứng của các sư có thể mạnh hơn, việc chúng ta làm có thể không thành, nay cần phải làm thế nào cho mọi người tưởng là chúng ta không làm nữa, để dư luận lắng xuống đă. Cuối cùng đưa ra kế sách: Bề ngoài phao tin là việc làm này đă thôi hẳn rồi nhưng bên trong cứ tiến hành xin phép. Khi được phép thành lập rồi sẽ tuyên bố. Lúc ấy không ai làm ǵ được nữa.

 

Chúng tôi bèn cho dánh máy lại tờ cuối cùng của bản điều lệ có ghi tên chức vụ trong ban trị sự lâm thời và kư giả vào đấy để mang đến cho Sư cụ chùa Vũ Thạch xem và nói là bản điều lệ định xin phép đă hủy đi rồi. Chỉ cốt đưa ḿnh Sư cụ chùa Vũ thạch xem là đủ rồi v́ tất cả các sư ở Hà Nội đều tin ở Sư cụ ấy cả.

 

Làm xong, tôi đem mấy tờ giấy ấy đến tŕnh Sư cụ chùa Vũ Thạch xem và nói rằng việc này đă thôi hẳn rồi, không c̣n tiến hành nữa, đây là những tờ cuối của bản điều lệ, c̣n có các chữ kư của ban trị sự đứng ra xin phép đây. Cụ bèn cầm lấy, đeo kính lên xem, và tỏ vẻ đắc ư lắm. Cho là đă phá được việc này, cụ gật gù nói: "May mà có sư huynh. Nếu không th́ họ rầy rà các sư và quấy rối đạo Phật  chứ bọn họ th́ làm ǵ được. Sư huynh để mấy tờ giấy này ở đây cho tôi...".

 

Tôi bèn thưa: " Bạch cụ, đây là những tờ giấy bỏ đi, cụ giữ làm ǵ? Đốt quách đi cho xong.". Nói xong tôi liền cầm diêm đánh, đốt ngay trước mặt Sư cụ. Từ đấy trở đi, mỗi khi đến Hà Nội, tôi rất ít ra vào chùa Vũ Thạch.

 

Biết công việc c̣n nhiều trở ngại, khó khăn nhưng tôi vẫn ở lại Hà Nội để t́m phương cách khác. Tôi nghĩ: Thế nào cũng có ngày thành tựu kết quả nên quyết không chịu lùi bước. Cũng như con cá sống, càng bị ngược nước càng cố tiến lên, việc có khó mới là những việc của người có chí lớn: "Thua keo này bày keo khác.".

 

Trở lại mục lục