Từ Rạch Cát tới Ṭa Đại Sứ

Tỷ kheo Thích Trí Quang

……Quân đội ṿng ngoài, cảnh sát lái xe tải chờ sẵn, rồi lực lượng đặc biệt có công an phụ lực, tấn công vào chùa lúc 11 giờ đêm. Đạn thật, đạn giả, lựu đạn cay, phi pháo, rồ lên loạn xạ. Dùi cui và búa được dùng để đập phá cửa ngơ của chùa, đánh vào đầu vào ngang lưng của tăng ni Phật tử. Chết chóc cũng có, bất tỉnh nhiều nhất, nhiều hơn nữa là lỗ đầu, u trán, sưng mặt, vẹo người, què tay chân. Khói lựu đạn cay và thuốc súng xông lên, bám hay xém vào y áo tăng ni Phật tử mà sau đó mười ngày ở trong Rạch Cát vẫn c̣n nồng nặc. Các thầy Tâm Châu, Thiện Hoa, Hộ Giác, Đức Nghiệp, Giác Đức, Chánh Lạc, cụ Chánh Trí, đều bị c̣ng tay điệu ra, tống lên xe tải hay xe nhỏ. Ngài Hội chủ, một bên trán mặt đỏ và sưng lên thấy rơ, cũng bị điệu ra, lên một xe riêng. C̣n tăng ni Phật tử, Nam tông cũng như Bắc tông, thương tích máu me, y áo tơi tả, vừa bị đánh đập vừa bị lôi kéo, tống hết lên xe tải, đậu từ Xá Lợi ra đến đường Hiền Vương. Đồ đạc Xá Lợi th́ trên từ ṭa sen của Phật xuống đến bất cứ cái ǵ, chúng nghi và ghét là đập phá. Chúng lại tịch thu, ăn cắp. May mà trước đó quả tim của ngài Quảng Đức và những ǵ trong tủ két đă được cụ Chánh Trí đưa gửi ngân hàng. Bản thảo một cuốn sách của tôi đang sửa chữa cũng được gửi theo.
Ngang đây tạm ngưng để nói đến hai vị Thánh, hai vị Bồ tát, đầu tiên trong giai đoạn thiết quân luật, là cháu Quách Thị Trang và ngài Quảng Hương.
Nguyên cảnh sát canh gác chúng tôi ở trại Rạch Cát có một số người Miên. Ngay hôm mới vào, họ đă bí mật liên lạc với chư tăng Nam tông chùa Changransey, cho biết khá nhiều tin tức và t́nh h́nh ở ngoài.
Tin tức họ cho có sự bị giết của cháu Quách Thị Trang và sự tự thiêu của ngài Thích Quảng Hương. Ngài th́ tôi đă ghi rồi, ở trong chương 28. C̣n cháu Quách Thị Trang là nữ sinh trung học đệ nhất cấp, đoàn Gia đ́nh Phật tử Giác Minh.
Đêm hôm ông Diệm thiết quân luật th́ ngay sáng hôm ấy cháu cùng một số Phật tử tức khắc trà trộn vào chợ Bến Thành, từ đó xông ra công trựng trước chợ mà biểu t́nh. Cháu cầm biểu ngữ bằng tấm bảng, viết vội vàng "yêu cầu thả tăng ni Phật tử". Cháu xông lên trước, hô lớn "phản đối đàn áp Phật giáo", "đả đảo đánh phá chùa chiền", "đả đảo", "đả đảo"…Cháu vừa hô vừa khóc. Phật tử cùng biểu t́nh cũng hô cũng khóc. Quần chúng Phật tử trong chợ đổ ra, hô theo.
Nhân viên công lực bấy giờ tàn bạo hết nói. Chúng có cái quyền "tiền trảm" mà không cần "hậu tấu"; Chúng đây là cảnh sát đồn Lê Văn Ken hay ǵ đó. Chúng bắn cháu chết tại chỗ, bắn ngay vào ngực của cháu. Rồi chúng bắn thật, bắn dọa, đánh đập hết cỡ, hành hung loạn xạ, vây bắt đem đi hết. Ở trong trại Rạch Cát ai nghe cũng ngậm ngùi, ứa nước mắt. Chỗ cháu bị bắn chết, sau này, học sinh sinh viên đặt tên là công trường Quách Thị Trang. Chợ Bến Thành được đổi gọi là chợ Quách Thị Trang. Một tượng bán thân của cháu được một sinh viên tự đắp lấy và dựng tại công trựng này.
Quay lại kể tiếp. Riêng tôi, khi tấn công Xá Lợi, chúng dỡ họa đồ ra t́m đúng chỗ tôi là các tầng tháp Xá Lợi. Chỗ nằm, chỗ làm việc, chúng t́m không sai. Nhưng chúng không ngờ một tuần trước đó v́ chịu không nổi mùi sơn viết biểu ngữ, tôi đă xuống hậu tẫm của chánh điện Xá Lợi. Ở đó sát vách với bộ phận tăng ni đánh máy quay ronéo. Nên tôi bị bắt với bộ phận ấy. V́ vậy mà chúng đă không t́m ra.
Lúc lên xe tải, cảnh sát lái và cảnh sát gác hỏi nhỏ có ông lớn nào thoát không? Chúng tôi không ai trả lời ǵ. Sau đó biết cảnh sát trên các xe khác cũng hỏi như vậy. Rồi cả đoàn xe chạy. Một hồi th́ ngừng. Th́ ra chiếc xe đi truớc hết bị hỏng (sau này nghe nói là cố ư). Mà đường th́ hẹp. Nh́n ra thấy đường nằm trên cánh đồng. Đường thấp, đồng có nước mà chắc là cạn. Các anh cảnh sát nói chuyền với chúng tôi, nói rất nhỏ, rằng ai muốn th́ thoát đi. Nhưng không ai làm việc ấy cả.
Một hồi th́ xe lại chạy. Đến một nơi mà sau đó biết tên là đồn Rạch Cát. Bấy giờ quăng 3,4 giờ sáng. Không mưa nhưng lạnh. Chúng tôi bị lùa vào hai dăy nhà. Tôi với một số chư tăng vào một nhà. Th́ đă thấy có chư tăng ở trước đó. Mới biết Giác Minh, Ấn Quang, Già Lam, Huệ Nghiêm, Pháp Quang, Changransey cũng bị bắt cả rồi. Bên dăy nhà chư ni và Phật tử cũng là như vậy.
Tôi hơi mệt, nền nhà lạnh và dơ mà vẫn nằm. Th́ có một tăng sĩ mà đến nay tôi vẫn chưa biết là ai, đến ngồi xếp bằng bảo tôi gối đầu lên vế của thầy mà ngủ. Quảng một giờ cả nhà hơi nhốn nháo. Th́ ra cụ Chánh Trí bị buộc đi theo hai cảnh sát ruồng trong các nhà. Vừa đi, cụ vừa nh́n vừa nói không có, không có. Khi đến tôi, chúng tôi nh́n nhau mà cụ càng nói không có, không có. Mới hay chúng dẫn cụ đi nh́n mặt để bắt tôi. Sau đó biết các lănh đạo cấp cao và cấp kế đều bị bắt đi riêng cả. Ai chưa th́ họ lùng trại Rạch Cát mà bắt.
Thế nhưng sót lại c̣n ngài Thiện Luật, tôi với thầy Huyền Quang, thầy Hộ Giác. Phần tôi, họ lùng không ra, lại nghi tị nạn ở ṭa đại sứ nào rồi. Sau đó tin cho biết như vậy. Lại cho biết họ vẫn c̣n nghi, đă cho một thầy vốn học cùng Phật học viện với tôi, làm như bị bắt mà vào Rạch Cát ḍ xét. Quả có thầy ấy. Thầy giáp mặt tôi mà không nói ǵ, rồi cũng không thấy ǵ.
Nay hăy tiếp tục câu chuyện. khi họ lùng rồi, vị tăng sĩ trên nói với tôi, bây giờ gần sáng rồi. Khi thầy ngủ, chúng con đă bàn với nhau. Bây giờ xin thầy mặc y Nam tông (đă có một tăng sĩ Nam tông đợi đổi y áo với tôi). Rồi dời qua ở bên nhà của chư tăng Nam tông. Ở đó có cả chư tăng chùa Changransey, sẽ bảo hộ thầy. Ngoài ra chư tăng Già Lam được phân công theo dơi thầy mà giúp đỡ. Bổn phận con đến đây là hết. Tôi ngạc nhiên và cảm kích sự sắp đặt ấy, nên bấy giờ nằm sát với ngài Thiện Luật, thầy Hộ Giác. Tăng ni hỏi ư kiến ǵ th́ tôi bàn với hai vị này mà chỉ bày.
Ở đây nói trước về tăng ni Phật tử trẻ đă. Suốt cuộc vận động 1963 của Phật giáo, không một ai bị bắt trước hay sau thiết quân luật mà để cho đối phương khinh thuờng. Tăng ni Phật tử lớn tuổi đă đành là như thế. Tăng ni Phật tử trẻ càng là như thế. Họ thật khôn ngoan, trung hậu, và rất anh hùng. Họ tin tưởng và bảo vệ lănh đạo đến kỳ lạ. Chính những ngày ở Rạch Cát với họ mà tôi thấy rơ và tin tưởng họ hơn lên. Nội việc trên dưới 500 người ở chung mà tin tức về tôi không bị lộ ra, đă là cả một vấn đề. Sau CM 1/11, tin tức nghe được từ mọi phía, tại Sài G̣n cũng như tại các tỉnh, không ai mà không thán phục tăng ni Phật tử trẻ mà cang cường. Không ai gặp một tăng ni Phật tử trẻ nào bị tra tấn mà khuất phục, phản bội. Cũng không ai mà không công nhận rằng, trong t́nh trạng giới nghiêm, tăng ni Phật tử trẻ đă gây ra bao nhiêu là xúc động, cảm phục, tích cực hoạt động theo. Lại tiếp tục câu chuyện.
Ở trại Rạch Cát, sau một ngày bị bắt, thầy Nhật Thiện (vốn đồng sư và đồng châu với tôi) và thầy Hành Tuệ (sau chết trong chuồng cọp ở Côn đảo) bàn nhau cùng ở sát tôi, dời ở một nơi nhỏ hơn. Họ lo cho tôi hết sức hết ḷng. Trong th́ gian này họ bắt khai lư lịch, lăn tay, chụp ảnh; Đến lượt tôi, thầy Nhật Thiện kéo một tăng sĩ Nam tông nữa cùng đi với tôi. Đến bàn làm việc họ cùng ngước lên nh́n rồi cùng cúi xuống cả. Rơ ràng có cái ǵ đó. Nên lời khai th́ tôi đọc, h́nh th́ thầy Nhật Thiện chụp, dấu tay th́ tăng sĩ kia lăn. Họ làm việc mà không hỏi hay nh́n kỹ đối phương là ai. Thầy Nhật Thiện nói phiếu lư lịch này không dùng được vào việc ǵ cả. Ni sư Huệ Nghiêm qua thăm, tôi dặn kỹ công việc khi được phóng thích. Rồi viết một bài gọi là Thiền của ngài Qui Sơn, bằng cách nhớ và dịch giải bài minh trong văn Cảnh sách của ngài.
Th́ gian này thầy Nhật Thiện và ni sư Huệ Nghiêm bàn riêng với nhau, sắp đặt cho tôi thoát ra. Họ liên lạc được với một cảnh sát vốn là công chức bị bắt mặc đồ cảnh sát vào gác ban đêm. Người này chịu, hẹn tối hôm đó mang thêm một bộ đồ cảnh sát vào cho tôi thay để sáng sớm hôm sau đèo xe người ấy chở ra. Nhưng gần trưa hôm sau đă được phóng thích. Việc phóng thích cũng ngồ ngộ.
Nguyên trước đó thầy Thiện Hoà vào thăm cả trại, có xuống thăm riêng tôi, nói hễ được phóng thích th́ thầy đưa về Ấn Quang. Nhưng khi phóng thích th́ cả thầy ấy và thầy Nhật Minh cho người xuống nói với tôi, rằng họ biết đích xác có tôi ở đây rồi. Xin thầy tự liệu.
Tôi chẳng liệu ǵ cả. Cũng không phiền ǵ. Nguyên lănh đạo Phật giáo có đem việc bị bắt ra bàn, rằng ai ở ngoài được th́ nên ở. Nhưng chẳng ai chịu cả. Đến nay tôi cũng chẳng thiết ǵ lắm được phóng thích ra. Chúng tôi ư thức bị bắt, hơn nữa bị giết, th́ rất có tác dụng. Nên bấy giờ tôi vẫn thản nhiên. Nhưng một tăng sĩ Nam tông, người Huế, miệng nói tay đẩy, thúc tôi đi ra với nhóm chư tăng Pháp Quang.
Khi điểm danh, đúng lúc thầy Hộ Giác bị bắt xuống xe tải th́ tôi lên xe tải ấy, trước cái nh́n của ngài Thiện Luật. Ngài thản nhiên. Nhưng ai cũng biết ngài vừa thương vừa mừng. Chư ni đứng chờ, mừng lộ quá, thấy là biết liền, không hiểu tại sao chẳng xảy ra chuyện ǵ.
Về Pháp Quang th́ tôi đi tắm giặt, thầy Nhật Thiện xuống Xá Lợi, chạy về với ni sư Huệ Nghiêm, cùng báo tin họ biết tôi không ra với chư tăng Changransey th́ với chư tăng Pháp Quang. Họ sắp đến đây. Quả nhiên, trời mưa như trút nước mà nh́n thấy họ đă bao vây bốn phía Pháp Quang, súng đă chĩa vào qua hàng rào.
Cùng lúc, bộ phận chỉ huy vào thưa với ngài Thiện Luật bảo chư tăng ra cho họ kiểm tra, "kẻo thiếu ai th́ họ bị trách nhiệm". ngài giằng co, từ chối, hẹn sáng mai, nói hôm nay mới về, chư tăng có người thưa tôi đi ra ngoài không ít. Họ không chịu. Đúng lúc ấy, với ư nghĩ vừa phát sinh, tôi bảo thầy Nhật Thiện và thầy Nhâm đi với tôi, xuống thưa ngài Thiện Luật, ngay trước mặt họ rằng chúng con đă viết thư ngài bảo (mà thật ra tôi mới viết vội vàng). Xin ngài kư cho để chúng con đưa về Thầy Thiện Ḥa. Thư có nội dung cám ơn việc được phóng thích mà chúng tôi qui công cho thầy ấy. Biết ư, ngài bảo đọc, rồi kư, lại nói trời sắp tối rồi, các thầy đi mau mà về. Đi bây giờ để tỏ ḷng chân thành.
Chúng tôi vâng dạ rồi đội mưa mà đi. Th́ trước sân chùa, gần ngoài ngơ, đă có hai chiếc taxi đậu ở đó, không b́nh thường. Xe sơn vành đỏ, có nghĩa tài xế có thể bắt về tổng nha công an. Nhưng tôi vẫn đi một trong hai chiếc xe ấy, bụng nghĩ mọi việc ở chính cái anh chàng tài xế công an này. Thật ra hai thầy vẫn nghĩ tôi đi Ấn Quang, nhưng biết rằng cần yên lặng để tôi liệu.
Xe ra đến đường lớn, tôi nói với hai thầy, kỳ hạn xuất gia của tôi quá hơn một tháng rồi. Chuyến này tôi sẽ xin sư cụ trở về, lập gia đ́nh. hiểu ư, hai thầy nói anh em tôi cũng vậy. Anh tài xế bèn lên tiếng, vậy ra các ông không muốn tu nữa ? Tôi cắt nghĩa cái lệ xuất gia có kỳ hạn của Phật giáo Nam tông là thế nào: ai muốn tu một th́ gian để kiếm phước và tập tánh tốt thôi, th́ có thể xuất gia từ một tháng cho đến vài ba năm, tùy ư, sau đó về nhà như thường. Ở các xứ Miên, Lào c̣n được mến trọng hơn lên.
Tài xế hỏi, các ông vừa rồi có bị bắt không ?
Tôi nói bị bắt mới được thả ra trưa nay.
Tại sao bị bắt ?
Tại đi biểu t́nh.
Ai bảo các ông đi biểu t́nh ?
Thấy trên đi th́ đi. Tôi nói thế, nghĩ vừa phải rồi nên bẻ qua chuyện khác. Rằng từ chùa về tới Ấn Quang mà chỉ được 20 đồng tiền xe. Mấy ngày nay tù túng quá, chúng tôi muốn ra bến tàu chơi một chút rồi đi Ấn Quang, anh giúp được không?
Được, được.
Tôi biết chắc anh sẽ trả lời như vậy để có dịp ḍ xét hơn nữa. Tôi nghĩ, thế th́ được quá đi rồi. Và biết hai thầy đă thừa hiểu ư tôi; Ra bến tàu, đến gần đường Hàm Nghi, tôi nói khi sáng đến giờ nặng đầu quá, anh làm ơn quẹo vào đây cho tôi t́m hiệu thuốc mua vài viên aspirine, được không ?
Anh lại nói được, được, và thêm, kể như làm phước giúp mấy ông vậy mà; Khi t́m ra hiệu thuốc th́ tôi nói cả ba cùng đi bộ cho giản chân cẳng một chút. Vừa đi vào hiệu thuốc tôi vừa hỏi nhỏ thầy Nhật Thiện, biết ṭa đại sứ Mỹ ở ngay trước cửa hiệu thuốc, lại biết luôn luôn mở cửa.
Ra khỏi hiệu thuốc, tôi nói với tài xế, anh cứ lái xe theo chúng tôi ra bến tàu, chúng tôi đi bộ chút nữa; Nói rồi tôi đi luôn, không để tài xế phản ứng ǵ.
Ṭa đại sứ Mỹ bấy giờ nằm trên đường Hàm Nghi, cùng phía với hiệu thuốc. Hiệu thuốc ở góc trên, ṭa đại sứ ở góc dưới, của con đường nhỏ hơn, băng ngang đường Hàm Nghi. Nhưng khi đi qua thấy cửa hơi khép. Tôi đi thẳng.
Đi qua chiếc xe ca đang đậu ở đó, ngoái lại th́ cửa mở rộng; Thế là chúng tôi bất ngờ quay lại, đi nhanh vào. Công an cảnh sát gác ngoài cửa ấy càng bất ngờ, không phản ứng kịp, chỉ nắm được tay thầy Nhâm nhưng thầy ấy giựt ra.
Anh lính Mỹ đứng sẵn nơi cửa, hai tay khoanh lại cho đúng thủ tục, nhưng xê ra cho chúng tôi vào pḥng anh, nhỏ và gần sát lề đường. Anh đóng cửa lại liền, hỏi các ông là phe ông Trí Quang? thầy Nhật Thiện chỉ tôi, nói thầy Trí Quang là vị này. Không hỏi ǵ nữa, anh kéo ba chiếc ghế mời chúng tôi ngồi, rồi gọi điện thoại.
Một lát, người Mỹ đă gặp tôi ở Từ Đàm đến, nói ǵ đó mà tôi chắc là xác nhận về tôi. Thế là chúng tôi được đưa vào thang máy, lên một pḥng có vẻ là nơi làm việc. Rồi ba người Mỹ nữa đến mà sau này tôi biết một trong ba người là ông cố vấn chính trị ṭa đại sứ. Họ chỉ hỏi thăm b́nh thường; Rồi đem một chiếc radio, mở đài BBC cho tôi nghe. Th́ ra đài này đang loan tin tôi đă vào ṭa đại sứ Mỹ. Từ khi vào đây đến lúc nghe BBC chỉ non một tiếng đồng hồ.
Trong khi nghe BBC, có tiếng chiến xe chạy tiếp nhau quanh quần ṭa đại sứ. Mấy người nói với tôi, chắc là quân đội đang bao vây. Họ trịnh trọng nói, nếu thầy có ư tỵ nạn th́ thầy là người khách của chúng tôi. Tôi nói, "tôi vào đây là để, xin lỗi, coi người Mỹ giải quyết thế nào về sự việc mà, dầu sao, nguời Mỹ cũng có trách nhiệm liên đới. Tôi yêu cầu tị nạn chính trị một thời gian cần thiết mà thôi"; Họ xác nhận với tôi, trịnh trọng mời lên nghỉ tạm tại pḥng họp của họ.
Về anh lính Mỹ gác cửa, sau này lên gác pḥng chúng tôi, nói chuyện mới biết anh vốn là quân nhân Mỹ hồi thế chiến thứ 2, có lần đóng gần Bồ Đề Tràng ở Ấn Độ, t́m hiểu Phật giáo và qui y với một tăng sĩ Tàu có chùa ở đó. Anh kể hôm các thầy mới vào, cửa hơi khép nhưng tôi vẫn chú ư. Thấy ba áo vàng đi qua, tôi đoán biết nên mở lớn cửa ra. Th́ có các thầy vào thật.
Quyết định tị nạn tại ṭa đại sứ Mỹ tuy mới phát sinh trong lúc khẩn cấp, nhưng trước đó, gần ngày thiết quân luật, cụ Hiểu, hội trưởng Phật giáo Nguyên Thỉ, đă nói riêng với tôi, rằng ông đại sứ Thái lan quen cụ, nhắn lời nói tôi có thể vào tị nạn chỗ ông nếu tôi muốn. Tôi nói với cụ Hiểu xin gửi lời cám ơn, nhưng không có ư định tị nạn.
Thầy Tâm Giác cũng nói tương tự, tôi cũng trả lời tương tự; Đến hôm sắp thiết quân luật; 7 giờ tối đă có một người Nhật mà thầy Tâm Giác nói là nhân viên ṭa đại sứ Nhật, vẫn vào đợi quyết định của tôi. Thầy Tâm Giác và người ấy đợi gần 11 giờ khuya, hỏi tôi lần chót, ghi nhận lănh đạo Phật giáo có ư thức không tị nạn, mới về. Họ về quăng nữa giờ th́ Xá Lợi bị tấn công. Khi ở ṭa đại sứ Mỹ, họ mời tôi lên sân thượng hứng gió chiều tối. nh́n xuống thấy quần chúng bên kia đường Hàm Nghi có vẻ nhận ra tôi và vui mừng. Thế là không bao giờ tôi lên nữa. Tôi nói với người Mỹ, rằng không muốn một ai nghĩ tôi ỷ vào các ông nên không e ngại ǵ cả. 

(Trích Hồi Kư chưa xuất bản của Tỷ kheo Thích Trí Quang, bản riêng Mai Lan lệ Ấn)
Nguồn Tư Liệu: http://www.khuongviet.net/PD63/Rachcat.htm

Trở về Mục Lục