Do Thái Giáo.
Người Do Thái cổ xưa là dân du mục, theo truyền thuyết Abraham đã di cư từ vùng Mesopotamina đến vùng Canaan, sau nầy gọi là Palestine, giáp với Ai Cập. Cháu nội của Abraham là Jacob đặt tên lại là Israel (có nghĩa là phấn đấu theo Chúa), Jacob có 12 người con, họ là tổ tiên của 12 bộ tộc Do Thái. Kinh thánh cho biết con trai của Jacob đã bán người anh em Joseph làm nô lệ cho Ai Cập. Khi nạn đói kém xãy ra ở Canaan, Joseph tìm được cha và những anh em ở đó, và họ đã buôn bán phát đạt trong nhiều năm. Về lâu sau nầy, cháu chắt họ trở thành là nô lệ.
Về Moses và Exodus, Moses đã hướng dẫn những người Do Thái nô lệ ra khỏi biên giới Ai Cập, còn giữ lại trong ý thức của người Do Thái tân thời. Tên Moses là người Ai Cập, theo truyền thuyết thiếu thời Moses sống trong cung đình Ai Cập, cho nên chưa chắc là gốc người Do Thái. Chúa báo cho biết trước là giao những đứa trẻ Do Thái từ Ai Cập và đưa chúng đến Canaan, do vậy Moses được người Do Thái thừa nhận là dân tộc của họ.
Về Exodus thì không rõ thời gian, nhưng có lẽ xãy ra vào thế kỷ 13 ttl. Những tù nhân đã đào thoát xuyên qua cực Bắc của Biển đỏ để vào sa mạc và đi tới núi Sinai hay Horeb. Theo thánh kinh, khi Moses đưa mọi người tới Sinai, chỉ có một mình Moses lên đỉnh, tại đây Luật đã được Thiên Chúa tiết lộ cho Moses tại ngọn Sinai nầy. Ðó là Mười Ðiều Răn,
Ðạo Do Thái là tôn giáo thõa hiệp giữa Yahweh (Thiên Chúa) và con cháu của Abraham, đã được chuẩn bị, thử nghiệm, thăng hóa. Thõa hiệp đó là thõa hiệp giữa Yahweh (Thiên Chúa) và người Do Thái, theo thõa hiệp, Thiên Chúa chọn người Do Thái đem đạo nầy truyền bá cho mọi dân tộc, và người Do Thái chỉ tôn thờ có một mình Thiên Chúa mà thôi, thõa hiệp được khắc trên đá, sau ghi vào trong sách gọi là kinh Torah, là năm quyển sách tương truyền do Moses soạn, gồm có : Genesis (Sáng thế kỷ), Exodus (Xuất Ê díp tô ký), Leviticus (Lê vi ký), Numbers (Dân số ký) và Deuteronomy (Phục truyền Luật lệ ký).
Moses ở tại sa mạc Sinai 40 năm, sau đó đưa những người nầy đến vùng đất hứa, thành lập nước Do Thái khoảng 1800 năm trước tây lịch.
Khi còn là một vương quốc thống nhất 12 bộ tộc dưới triều đại vua Davis (1010-970 ttl), vua Davis chọn Jesusalem làm thủ đô, sau đó vua Solomon (970-931ttl) kế nghiệp, vua Solomon cho xây đền thờ kinh Torah tại thành phố Jerusalem lần thứ nhất, dành để cầu nguyện. Sau khi vua Solomon qua đời, con là Rehobam yếu kém nên chỉ giữ được phần đất phía Nam, trong đó có thành phố Jerusalem, lấy danh xưng là vương quốc Juda.
Phần đất phía Bắc vẫn là Israel gồm 10 bộ tộc, về sau phần đất nầy bị các nước khác xâm chiếm, dân Do Thái sống phân tán nhiều nơi, Riêng vương quốc bé nhỏ Do Thái bị đô hộ hơn thế kỷ, cuối cùng cũng bị mất nước luôn năm 587 ttl, các nhà lãnh đạo bị người babylon bắt như tù nhân đưa họ đến Babylon.
Ðền Thờ do vua Solomon xây bị phá vào năm 578 ttl, Ngôi đền hiện chỉ là bức Tường Phía Tây của ngôi đền tại Jerusalem cũng được gọi là The Wailling Wall, được xây cất lại lần thứ hai vào thế kỷ II ttl và bị dân La Mã phá hủy vào năm khoảng năm 70 stl.
Nước Do Thái đã bị các nước khác đô hộ, lần lược như sau: Babylonian (587-538 ttl), Persian (538-333), Hellenistic (333-63) Roman (63ttl-313stl), Byzentine (313-636), Arab (636-1099), Crusaders (1099-1291), Manluk (1291-1516), Ottoman (1516-1917), British (1918-1948), ngày 14-5-1948 Do Thái tuyên bố Ðộc Lập, nhờ Liên Hiệp Quốc có nghị quyết cho tái lập nước Do Thái trên phần đất cũ của họ bên bờ biển Ðịa Trung Hải.
Về đất nước Do Thái có những điểm đặc biệt:
Trong lịch sử nhân loại, chỉ có một quốc gia duy nhất, sau 1000 năm độc lập và 2000 năm lưu đày biệt xứ, đã trở về nơi quê cha đất tổ, xây dựng lại một quốc gia tân tiến và dân chủ. Ðó là nước Do Thái.
Mặc dầu tản mác lâu dài trên các phần đất khác nhau của địa cầu như Á châu, Âu châu, Mỹ châu, Úc châu, Phi châu, và chịu nhiều ngược đãi, khổ nhục,... người Do Thái đã không bao giờ quên rằng :
- Thiên Chúa đã chọn tỏ hiện ra
với các Tổ phụ của họ : Abraham, Isaac, Jacob.
- Từ 20 thế kỷ trước công nguyên, Thiên Chúa đã hứa cho họ đất
Do Thái.
- Từ 13 thế kỷ trước công nguyên, qua trung gian Moses (Moisen), họ
đã lãnh nhận 10 điều răn, là những giới luật đã trở thành kim
chỉ nam dẫn đạo thế giới văn minh.
- Tiếp đó người Do Thái đã sống một thời thịnh vượng và độc
lập trên lãnh địa riêng của họ dưới tài lãnh đạo của vua David,
một vị vua thi sĩ, một vũ tướng, một lãnh tụ xứng đáng, rồi vua
Salomon nổi tiếng khôn ngoan, là tác giả tác phẩm bất hủ "Diệu
Ca", và cũng là tác giả ngôi đền thánh lộng lẫy tại
Jerusalem tôn vinh Thiên Chúa độc nhất.
Do Thái là giao điểm của các lục địa và các nền văn minh cổ, là quốc gia của Kinh Thánh, là quê hương của ba đại tôn giáo độc thần, là đất thánh của Do Thái giáo (82.90%), Hồi giáo (13.50%), và Kitô giáo (2.30%).
Ðây là quê hương :
- Của các tổ phụ được chôn cất
tại Hébron,
- Của Moses đã lãnh nhận trên núi Sinai 10 điều răn, nền tảng của
luật luân lý phổ quát,
Ðây cũng là quê hương của các vua Do Thái :
- Vua David đã chọn Jérusalem làm
thủ đô,
- Vua Salomon đã xây dựng ngôi đền thánh huy hoàng tại Jerusalem.
- Vua Jesus đã chào đời tại tại Bethlehem, chính trên máng lừa Chúa
sinh ra này đã được xây lên ngôi thánh đường dâng kính Chúa Hài
đồng. Là quê hương của đức Jesus đã sống tại Nazareth, đã làm
phép lạ đầu tiên tại Cana, rồi trên núi Thabor, trên sông Jourdan, biển
Galilée.
Sau cùng tuyệt đỉnh của tất cả, con tim của đất thánh chính là thành phố Jerusalem vĩnh cửu với ngôi thánh đường mang phần mộ Chúa, vườn chôn táng Chúa, con đường chịu nạn, vườn Gietsemani, núi cây dầu, căn phòng tiệc ly sau cùng trên núi Sion. Rồi trên núi Moria, núi đền thánh có 2 trong những nơi rất thánh của Hồi giáo : là Dome du roc và giáo đường El Aksa. Và một nơi rất thánh của Do Thái giáo là bức tường phía Tây, vết tích cuối cùng của đền thánh Jerusalem ngày xưa.
Ðặc biệt ở Do Thái, người có thể thăm viếng các Kibboutz. đây là các cộng đồng làng xã rất nổi tiếng trên thế giới, trong đó mọi người đều hoàn toàn bình đẳng : làm việc theo năng lực và hưởng thụ theo nhu cầu.
Trở lại với kinh thánh của Thiên chúa giáo có Cựu ước và Tân ước, phần đầu của Cựu ước là Năm Quyển Sách Của Moses, như đã trình bày trên, đó cũng là kinh Torah của Do Thái Giáo.
Tín đồ đạo Do Thái hiện nay chiếm 0.8% dân số thế giới, khoảng 48 triệu. Ðạo Do Thái được hình thành từ 3800 năm trước.
Nội dung chính thõa hiệp giữa Ðức Chúa Trời và dân Do Thái như sau :
Xuất Ê Díp Tô Ký XX
Căn cứ theo đó, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Tin Lành lập thành Mười Ðiều Răn:
Mười Ðiều Răn của Do Thái giáo:
1. Ta là Giê hô va Ðức Chúa Trời
ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Ê díp tô, là nhà nô lệ.
2. Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác.
Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống
những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước
dưới đất. Ngươi chớ quỳ lạy các hình tượng đó, và cũng đừng
hầu việc chúng nó; vì ta là Giê hô va đức Chúa Trời ngươi, tức
là đức Chúa Trời kỵ-tà, hể ai ghét ta, ta sẽ nhơn tội tổ phụ
phạt lại con cháu đến ba bốn đời và sẽ làm ơn đến ngàn đời
cho những kẻ yêu mến ta và giữ các điều răn của ta.
3. Ngươi chớ lấy danh Giê hô va mà làm chơi, vì đức Giê hô va chẳng
cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh ngài mà làm chơi.
4. Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh. Ngươi hãy làm hết
công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ của
Giê hô va và đức Chúa Trời ngươi: trong ngày đó, người con trai,
con gái, tôi trai, tớ gái, súc vật của ngươi, hoặc khách ngoại bang
ở trong nhà ngươi, đều chớ làm công việc chi hết; vì trong sáu
ngày đức Giê hô va dã dựng nên trời, đất, biển và muôn vật ở
trong đó, qua ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ: Vậy nên đức Giê hô va
đã ban phước cho ngày nghỉ và làm nên ngày thánh.
5. Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên
đất mà Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi ban cho.
6. Ngươi chớ giết người.
7. Ngươi chớ phạm tội tà dâm.
8. Ngươi chớ trộm cướp.
9. Ngươi chớ nói chứng dối cho kẻ lân cận mình.
10. Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người,
hoặc tôi trai, tớ gái, bò, lừa hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận
ngươi.
Mười Ðiều Răn của Chính Thống Giáo và Tin Lành:
Mười Ðiều Răn của Thiên Chúa Giáo:
Về vũ trụ và con người, trong Sáng Thế Ký, Cựu Ước ghi như sau :
1 Vào buổi sơ khai * Thiên Chúa tạo tác trời và đất ,
[2 địa cầu lúc ấy còn trong trạng thái hỗn mang, các vực thì u thâm, và trên nước có Thần phong * thổi ào ào. 3 Thiên Chúa phán: Ánh sáng đâu hãy xuất hiện, và lập tức có ánh sáng. 4 Thiên Chúa đã thấy ánh sáng tốt đẹp vô cùng. Sau đó Thiên Chúa đã cách li ánh sáng khỏi bóng tối. 5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, và bóng tối là đêm. Rồi hoàng hôn tới, và bình minh theo sau - ngày* thứ nhất trôi qua.
6 Sau đó Thiên Chúa phán, "hãy xuất hiện một mái vòm trên những khối nước để biên định các hải dương." 7 Quả nhiên, Thiên Chúa tạo ra một mái vòm, và mái đó phân cách phần nước bên trên ra khỏi phần nước bên dưới mái vòm. 8 Thiên Chúa gọi (phía trên) mái vòm là trời, phía dưới là nước. Hoàng hôn tới, và bình minh theo sau - ngày thứ hai trôi qua.
9 Sau đó Thiên Chúa phán, "Nước ở bên dưới trời hay tụ về cả một vực mà thôi, để cho lục địa khô cạn xuất hiện." Quả thế: nước ở bên dưới trời đã dồn cả vào một vực, và lục địa khô cạn đã xuất hiện. 10 Thiên Chúa gọi lục địa khô cạn là đất, còn vực tụ nước thì Ngài gọi là biển. Thiên Chúa cho là tuyệt hảo. 11 Sau đó Thiên Chúa phán, " Ðất đai hãy sản xuất thảo mộc gồm những cây mang hạt giống và những cây ăn trái mà trái lại có hạt giống bên trong." 12 Và quả như vậy: đất đai sản xuất các cây có hạt giống đủ loại, và các cây ăn trái mà trái lại có hạt giống bên trong cũng đủ loại. Thiên Chúa cho là tuyệt hảo. 13 Hoàng hôn tới và bình minh theo sau - ngày thứ ba trôi qua.
14 Sau đó Thiên Chúa phán, "Hãy xuất hiện những điểm sáng ở vòm trời để cách li ngày khỏi đêm, và mấy điểm này sẽ giúp xác định thời giờ, ngày và năm, 15 lại dùng làm đèn soi vòm trời, chiếu sáng xuống đất." Và quả như vậy: 16 Thiên Chúa tạo ra hai nguồn sáng chính, nguồn mạnh hơn để giám quản ban ngày, và nguồn yếu hơn giám quản ban đêm; và ngài còn tạo ra các tinh cầu. 17 Thiên Chúa đặt chúng vào vòm trời, để chiếu sáng xuống mặt đất, 18 và để giám quản ngày và đêm, lại cách li ánh sáng khỏi bóng tối. Thiên Chúa cho là tuyệt hảo. 19 Hoàng hôn tới, và bình minh theo sau - ngày thứ tư trôi qua.
20 Sau đó Thiên Chúa phán:" Dưới nước kia phải lúc nhúc các sinh vật, và trên đất kia hãy để cho chim muông bay lượn dưới vòm trời. "Và đúng như vậy: 21 Thiên Chúa đã tạo tác những hải vật to lớn hình dạng khủng khiếp và mọi thứ sinh vật lúc nhúc dưới nước , cùng là đủ loại cầm điểu có cánh. Thiên Chúa cho là tuyệt hảo, 22 và Thiên Chúa chúc phúc cho chúng bằng câu, " Hãy sinh sản ra nhiều, cho chật nước các hải dương, và chim muông phải tăng số trên mặt đất. " 23 Hoàng hôn tới, bình minh tiếp theo - ngày thứ năm trôi qua.
24 Sau đó Thiên Chúa phán, "Mặt đất hãy sản xuất các sinh vật gồm có gia súc, các giống bò sát *và các hoang thú đủ loại." 25 Và đúng như vậy: Thiên Chúa đã tạo ra các hoang thú đủ loại, gia súc đủ loại, và các giống bò sát mặt đất đủ loại. Thiên Chúa cho là tuyệt hảo. Thế rồi ]
26 Thiên Chúa phán, "Nào chúng ta* hãy tạo nên những con người giống hình ảnh chúng ta, phỏng theo tượng dạng chúng ta. Hãy đặt chúng quản trị cá ở biển, chim trên trời và gia súc cùng là các hoang thú và các tạo vật bò sát mặt đất."
27 Thiên Chúa đã tác tạo con người lấy chính mình làm mô dạng, theo đúng mô dạng của Thiên Chúa ngài đã tác tạo y; có nam và có nữ ngài đã tác tạo họ.
28 Thiên Chúa chúc lành cho họ bằng câu: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều; hãy lan tràn khắp mặt đất và hãy làm chủ địa cầu. Hãy thống trị cá biển, chim trời và các sinh vật di động trên đất.*" 29 Thiên Chúa còn phán,"Kìa, ta ban cho các ngươi các cây mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây sinh trái có hạt giống bên trong để các ngươi dùng làm thức ăn, 30 ngoài ra còn cho các thú vật trên lục địa, chim trên trời, và mọi sinh vật bò sát trên mặt đất được lấy cây xanh làm thực phẩm." Và đã được như ý. 31 Thiên Chúa ngắm các thức ngài đã tác tạo, và nhìn nhận là tuyệt hảo.
[ Hoàng hôn tới, và bình minh theo sau - ngày thứ sáu trôi qua.
2:1 Như vậy là cuộc tác tạo các tầng trời và địa cầu cùng tất cả các phụ vật đã thành toàn. 2 Vào ngày thứ bảy Thiên Chúa làm xong công trình ngài đương làm. Vào ngày thứ bảy ngài đã ngưng nghỉ sau khi hoàn tất công tác trù liệu.]
5 Hồi đó khi Thiên Chúa tác tạo trái đất và các tầng trời - lúc ấy trên lục địa chưa có cây cối, ngoài đồng nội cỏ xanh chưa đâm mầm, vì trước lúc ấy Gia-vê Thiên Chúa chưa cho mưa tưới địa cầu, lại chưa có người cày cấy, 6 chỉ có một con suối từ lòng đất vọt lên chan nước ra khắp nơi. 7 Gia-vê Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra hình người *và hả hơi vào mũi y để y tiếp nhận sức sống, và như vậy con người trở thành một sinh vật.
8 Sau đó Thiên Chúa tạo ra một thửa vườn ở Y điền * toạ lạc tại hướng đông, và ngài đem con người ngài đã nặn đặt vào đó. 9 Từ lòng đất Gia-vê Thiên Chúa cho cây cối đủ loại mọc lên, hình dạng xinh đẹp lại có thể dùng làm thực phẩm tốt; đặc biệt có cây Trường Sinh mọc chính giữa vườn, lại có cây giúp ý thức điều thiện điều ác....
15 Gia-vê Thiên Chúa đem con người bỏ vào vườn Y điền, để y cầy cấy chăm nom thửa vườn. 16 Gia-vê Thiên Chúa ra cho y mệnh lệnh sau: "Nhà ngươi muốn ăn trái cây nào trong vườn cũng được, 17 trừ trái cây giúp ý thức thiện ác*. Trái từ cây đó nhà ngươi chớ có ăn; nếu ăn vào là mất mạng."
18 Gia-vê Thiên Chúa phán: "Ðàn ông ở một mình thì không hay. Ta sẽ tạo ra một kẻ đồng bạn xứng hợp với y." 19 Thế là Gia-vê Thiên Chúa lấy đất nặn ra nhiều hoang thú khác nhau và nhiều chim trời khác nhau và Ngài đem lại cho người đàn ông để y ngắm dạng và đặt tên cho chúng. Y cho tên nào thì mỗi con sẽ mang tên ấy. 20 Người đàn ông đặt tên cho các gia súc, các chim trời, và các hoang thú; nhưng không con nào có thể gọi là đồng bạn xứng hợp với y được.
21 Như vậy Gia-vê Thiên Chúa làm phép cho người đàn ông ngủ mê, và đương khi y ngon giấc, ngài rút một khúc xương sườn của y, và lấy thịt đắp vào chỗ khuyết. 22 Thế rồi Gia-vê Thiên Chúa lấy khúc xương sườn rút ra từ người đàn ông mà kiến tạo nên một người đàn bà. Khi ngài đem nàng lại cho chàng, 23 thì người đàn ông nói:
" Rốt cuộc, đây là khúc xương từ bộ cốt của ta, là cơ nhục từ thịt xác của ta. Nàng sẽ mang tên là "đàn bà" *, là vì từ đàn ông của mình* nàng đã ra đời."
24 Ðó là lí do khiến đàn ông bỏ cha bỏ mẹ mà gắn bó với vợ mình, và hai người trở thành một thân thể.
25 Người đàn ông và vợ cả hai ở dạng khoả thân mà không e thẹn gì hết.
1 Con rắn thường được coi là loài tinh khôn nhất trong các vật được Gia-vê Thiên Chúa tác tạo. Bữa đó con rắn hỏi người đàn bà,"Có thật Thiên Chúa cấm nàng không được ăn bất cứ trái cây gì trong vườn chăng? " 2 Người đàn bà trả lời con rắn: "Chúng tôi được phép ăn trái các cây trong vườn, 3 chỉ trừ có trái từ cây đứng ở giữa vườn, vì Thiên Chúa đã căn dặn 'Các ngươi chớ ăn nó vào, động tới là chết.'" 4 Nhưng con rắn bảo người đàn bà. "Ðâu có ! Nàng sẽ chẳng chết đâu! 5 Chỉ vì Thiên Chúa thừa biết nàng ăn trái đó vào, thì sẽ giác ngộ, sẽ giống các thần minh ý thức được điều thiện điều ác." 6 Người đàn bà ngắm nghía thấy trái ăn vào chắc ngon miệng, mà trông lại đẹp mắt, nó còn hấp dẫn vì có thể giúp mình hiểu biết thêm. Nàng bèn hái lấy vài ba trái từ cây mà đưa lên miệng; rồi lại đem mấy trái nữa mời chồng nàng lúc ấy đương ở gần nàng, và chàng cũng ăn. 7 Chợt con mắt của cả hai bừng mở, và họ nhận thức mình đương trần truồng, mới đi kiếm lá cây kết lại làm đồ mặc che thân.
8 Khi họ nghe thấy tiếng chân Thiên Chúa tản bộ trong vườn vào lúc ánh dương đã dịu lại có gió hiu hiu, thì vợ chồng hai người muốn lánh mặt Gia-vê Thiên Chúa, bèn tìm đến mấy lùm cây trong vườn mà ẩn núp.
[ Sau khi A-đam đã ăn trái cấm,] 9 Gia-vê Thiên Chúa lên tiếng gọi người đàn ông mà hỏi chàng, "Ngươi đâu rồi?". 10 Chàng đáp, "Nghe tiếng ngài trong vườn, tôi sợ quá vì thấy mình khoả thân, thành ra phải đi ẩn." 11 Ngài hỏi, "Ai mách cho ngươi hay là ngươi khoả thân? Phải rồi, ngươi đã ăn trái cấm !" 12 Người đàn ông đáp, "Người đàn bà ngài đã đặt bên tôi - nàng đã cho tôi trái cây đó, và tôi đã ăn." 13 Bấy giờ Gia-vê Thiên Chúa hỏi người đàn bà, "Sao ngươi làm chuyện như vậy?" Người đàn bà trả lời,
" Con rắn cám dỗ tôi, và tôi đã ăn."
14 Gia-vê Thiên Chúa nói với con rắn, "Bởi vì mày đã làm chuyện như thế này, mày sẽ bị đày xa các thú vật khác, và trong số các tạo vật sống hoang mày sẽ phải bò bằng bụng, và phải ăn bụi ăn đất suốt đời mày. 15 Ta sẽ gây nên mối thù giữa mày với người đàn bà, và giữa con cái của mày với con của nàng; mà con nàng* sẽ tấn công trúng đầu mày, giữa lúc mày muốn tấn công gót chân người đó."
16 Với người đàn bà ngài phán, " Ta sẽ bắt ngươi phải đau quặn khốn nạn khi sinh đẻ; và ngươi phải khổ sở lắm mỗi khi lâm bồn. Ngươi một lòng khát mong chồng, mà chàng sẽ làm chúa ngươi.*"
17 Với người đàn ông, ngài phán," Ðất kia bị rủa độc là vì ngươi! Muốn ăn hoa mầu của nó suốt đời ngươi sẽ phải lao động cực nhọc. 18 Từ đất chà gai sẽ mọc lên gây khó cho ngươi, và ngươi sẽ phải lượm rau hoang ngoài đồng mà lót dạ. 19 Phải đổ mồ hôi trán, ngươi mới tìm ra cơm bánh mà ăn, chờ ngày ngươi trở lại với bụi đất nơi ngươi xuất phát. Là vì ngươi vốn là bụi đất, ngươi sẽ trở thành bụi đất."
20 Người đàn ông gọi vợ mình là E-va, bởi vì nàng là mẹ hết các người sống .
21 Muốn giúp hai vợ chồng, Gia-vê Thiên Chúa lấy da thú làm áo cho họ mặc. 22 Rồi Gia-vê Thiên Chúa phán, "Xem đây ! Người đàn ông đã trở thành một vị trong số chúng ta, vì đã nhận thức điều thiện với điều ác! Do đó đừng cho y với tay hái quả cây Trường Sinh nữa, kẻo ăn vào y sẽ sống đời đời." 23 Sau đó Gia-vê Thiên Chúa đuổi chàng ra khỏi vườn Y-điền, bắt cầy đất, vốn là chất đã giúp cấu tạo ra chàng. 24 Phát vãng người đàn ông rồi, ngài đặt những (thiên sứ thuộc cấp) Kê-ru-bim* tay cầm kiếm sáng loáng, trấn lối vào cây Trường sinh..
.....
Ðó là đoạn kinh của Do Thái nói rõ về nguồn gốc của Vũ trụ và con người đều do Thiên Chúa tạo ra.
( * ) Xin xem tiếp Bài 7: Thiên Chúa giáo
( * ) Trở về Mục Lục