Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn
Đặng Trần ThườngDẫn: Vài chục năm trước, trong tủ sách ở nhà quê, chỉ có vài quyển như Truyện Kiều, Tam Thiên Tự, Thần Hổ, Thằng Bờm, Tứ Dân Văn Uyển … quyển th́ đóng b́a cứng, có quyển lại chẳng c̣n b́a như quyển Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn. Các soạn giả quyển sách này, đánh giá là áng văn chương kiệt tác, nhưng sách vở ít đề cập tới. Do vậy tôi thấy nên sao lục ra, phổ biến cho mọi người cùng thưởng thức.
Tác phẩm có liên quan đến một giai đoạn lịch sử Trung Hoa, sau khi nhà Tần mất, diễn tả nỗi ḷng của cung nữ trong ba ngàn cung nữ nhà Tần ở cung A Pḥng, họ ngưỡng vọng ân mưa móc, nhưng không được Bái Công đoái hoài.
Do b́a sách không c̣n, tôi không biết nhà in nào đă in hay nhà phát hành nào, may thay c̣n có tên của hai tác giả ở cuối sách và năm in 1933, tôi cố gắng giữ nguyên những câu, chữ và cách tŕnh bày cho nên có vài chữ xưa, vài chữ sai chánh tả. Đôi chỗ, có một chữ đúng, một chữ sai trong cùng đoạn văn, tôi sửa chữ sai cho đồng nhất.
Louisville, ngày 16-6-2011
Huỳnh Ái Tông
Link: Bái Công người dựng nên nhà HánBài Tựa
TẦN CUNG NỮ OÁN BÁI CÔNG VĂN là một áng văn kiệt tác trong văn giới ta mà từ xưa đến nay vẫn ít người được thưởng thức.
Chúng tôi đă thấy nhiều nơi có công t́m kiếm biên chép lại song không được trọn bài. Bổn xưa không c̣n, người này truyền khẩu người kia, thành thử sao lục sai đi sai lại. Sai cho đến cái đề của bài văn. Tuy cho bài này đề là TẦN CUNG OÁN th́ cũng phải, song thiệt ra là TẦN CUNG NỮ OÁN BÁI CÔNG VĂN. Có bản chép đến “Ngôi cao Hoàng đế” là hết chớ biết c̣n 14 câu nữa là trọn bài
Chúng tôi có nguyên văn bài ấy, chép lại rất kỹ và rơ ràng, xin cống hiến bà con trong làng văn, để thưởng thức một áng văn chương kiệt tác của nước nhà.
Tác giả TẪN CUNG NỮ OÁN BÁI CÔNG VĂN là cụ Đặng Trần Thường, người tỉnh Nghệ an. Trước cụ pḥ nhà Lê sau về làm tôi nhà Nguyễn, cụ là người rất hay chữ và tài giỏi tuyệt vời. Cũng v́ cụ buồn cho thân thế nên xem lời lẽ bài này thật là kín đáo và thâm trầm; Đọc bài này không phải là đọc cho vui tai, thủng thẳng từng câu một cho ư nó ngầm ngầm vào óc mới là thưởng thức.
V́ vậy mà chúng tôi dẫn giải từng câu một.
Tháng Septembre năm 1933
Ưng Trung, Ưng Lăo
XIN CHÚ Ư: Bài Tựa này thay cho Bài Tựa trước
Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn
1. Sương tỏa cung A
Mây lồng đồn BáSƯƠNG: là chỉ người con gái đương c̣n trinh tiết, cho nên nói khói toả cung A th́ thành ra vô nghĩa
CUNG A: Cung A pḥng để cho cung nữ ở, cung này làm ở đất Hàm dương.
MÂY: là chỉ Bái công. Khi Bái công đi th́ trên trời có mây ngũ sắc che.
ĐỒN BÁ: Đồn Bá thượng, Bái công kéo quân về đóng tại đây.
Các cung nữ đương ở trong cung A Pḥng vắng vẻ v́ Bái Công đến đóng đô tại đồn Bá Thượng
2. Xuân tin bổng nhẻ cùng điệp sứ
Phương tâm đành thẹn với long nhanXUÂN TIN: là tin mùa xuân.
NHẺ: là nhắn nhe.
ĐIỆP SỨ: là con bướm.
PHƯƠNG TÂM: ḷng trong sạch thơm tho (phương: thơm). Cung nữ tự xưng ḿnh thơm tho, trong sạch.
LONG NHAN: mắt rồng, chỉ Bái công.
Muốn nhờ mối mai để tỏ tấm ḷng trong sạch của ḿnh (chỉ cung nữ) nhưng vẫn c̣n thẹn thùng với ngài (chỉ Bái công).
3. Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng, chiếc ngư phủ đă đưa vào động biếc.
Bởi má đỏ thường đeo phận bạc, chỉ nguyệt ông nên dắc lại lầu son.NGƯ PHỦ: Người chài cá. Ông Đào Tiềm có kể chuyện ông chài theo nguồn mà đi rồi lạc vào Đào nguyên là chỗ tiên ở.
ĐỘNG BIẾC: Động Bích, động tiên ở.
NGUYỆT ÔNG: ông nguyệt lăo thường xe tơ.
Nếu trong lúc tuổi xanh mà không nhuốm bụi trần, th́ được thành tiên rồi – Cũng v́ số hồng nhan phận mỏng nên ông tơ xe dây lại chốn lầu son.
4. Vẻ vang chăng một tiếng cung nhân
Ngao ngán cả mười nguyền thất nữ.CUNG NHÂN: người ở cung.
MƯỜI NGUYỀN: Đàn bà có thập nguyện.
THẤT NỮ: gái trong sạch
Vẻ vang chỉ là tiếng cung nhân – mà thiệt ngao ngán cho ḿnh không được một điều như nguyện.
5. Cầu hồng dậm tiếng dầy tợ sấm, xô bồ dưới nguyệt gót kim liên.
Các phụng chen bóng bổ dường mây, lấp loáng trong gương da bạch ngọc.CẦU HỒNG: hay cầu đồng là cái cầu h́nh như cái muổng năm sắc nỗi ở chân trời biểu hiện mưa lụt. Trong các cung thường có cầu vồng bắt đền này qua đền nọ.
KIM LIÊN: vua Đông Hôn Hầu lấy vàng chạm hoa sen lót dưới đất để nàng Phan Phi đi mà xem nói rằng: “nước bước nở hoa sen”. Gót kim lien tức là gót vàng gót sen hay nước bước ngựi con gái đẹp.
CÁC PHỤNG: chỗ đàn bà làm tốt.
BẠCH NGỌC: ngọc tuyệt phẩm, ngọc trắng.
Dưới bóng Nguyệt, các cung nữ tha thướt trên cầu Hồng nghe ồn như sấm. - Lại trong các phụng chen chúc nhau báng bổ ra tối như mây. (V́ cung nữ có 3000 người)
6. Đài loan nọ thôi cười với bóng,
Nệm túy kia lại ngủ cùng ba.ĐÀI LOAN: Kính có h́nh con loan
NỆM TÚY: Nệm đệm bằng lông con túy.
Soi gương th́ cười với bóng - Ngủ th́ chỉ mỗi một ḿnh với nệm gấm hoa. (Ư nói ở một ḿnh pḥng không vắng vẻ)
7. Nét mày xanh tử cái lá cũng ghen, câu khiển hứng đánh ch́m ḍng nước chảy,
Lằn mui thắm đến con chim c̣n ghét, giấc thừa ân nhắc nổi bóng trăng tà.CÁI LÁ: Đời xưa một người cung nữ để một bài thơ trên ngọc lá,thả trên ḍng nước. Một người đàn ông bắt được bài thơ ấy, họa một bài thơ khác trên lá rồi thả đi. Người cung nhân ấy lại bắt được bài thơ ấy. Sau hai người kết duyên cùng nhau.
KHIỂN HỨNG: tiêu buồn. Thơ khiển hứng là thơ làm trong khi buồn nhớ ai.
CON CHIM: Khi gần sáng th́ có chim kêu nên người ta gọi là chim kêu tỉnh giấc mộng.
GIẤC THỪA ÂN: Giấc chiêm bao được gần vua.
Cái lá ghen với nét mày xanh, cho nên nó làm ch́m bài thơ của ḿnh thả trên ḍng nước – Con chim ghét với lằn mui thắm nên nó đánh thức ḿnh giậy, thành không trọn giấc chiêm bao được gần vua. (Cung nữ nói ḿnh đẹp cho đến lá ghen, chim ghét)
8. Gẩm thân duyên thường rơi nước mắt thầm.
Nghe thế sự thêm đổ mồ hôi trộm.Nghĩ phận ḿnh luống khóc thầm - Lại nghe thế sự thêm càng ngao ngán nỗi.
9. Cung Vị thủy lúc nỉ non giọng rế, trướng thu phong lạt bậc quăng huyền xưa,
Cửa Hàm quan khi chói lói ngọn đào, rèm tà nguyệt ố màu la ỷ cũ.VỊ THỦY: sông Vị thủy.
THU PHONG: gió thu.
QUẢNG HUYỀN: (quảng ống sáo, huyền dây đàn) tiếng ca đàn.
HÀM QUAN: cửa thành Hàm cốc quan nhà Tần.
NGỌN ĐÀO: cái bàn triệu có lá cờ đỏ.
TÀ NGUYỆT: nguyệt xế.
LA Ỷ: đồ hang, gấm.
Khi đám tang của vua Tần thủy Hoàng đưa ra cửa Hàm quan rồi, cung Vị thủy chỉ nghe dọng rế kêu sầu, chớ không c̣n ca đờn như ngày trước – Hàng gấm ngày xưa nay đă ố màu, phai sắc.
10. Quá ngán nhẽ, cửa bạch câu một loáng,
Ngậm ngùi thay, tranh thương cẩu trăm h́nh.BẠCH CÂU: ngựa qua cửa sổ, nói đời người thắm thoát.
VÂN CẨU: mây h́nh con chó, nói sự thay đổi trên đời.
Ngán ngẩm thay ! Ngậm ngùi thay ! cho đời người thấm thoát, cuộc thế tang thương.
11. Con hưu bách nhị lạc loài đâu, ba cỏ ủ ê vườn thượng uyển,
Cái én tam thiên ngơ ngẩn đó, mây mưa bát ngát đỉnh vu phong.CON HƯU BÁCH NHỊ: Chỉ nhà Tần. Nhà Tần gồm có nhiều cơi (bách nhị sơn hà). Nhà Tần mất, thiên hạ anh hùng nổi lên đua đánh như săn một con hưu vậy.
THƯỢNG UYỂN: vườn vua.
TAM THIÊN: 3 ngàn. Cung nhân nhà Tần 3 ngàn.
VU PHONG: bởi chữ Vu giáp: Xưa có Đường Đài thần nữ ở trong núi Vu sơn. Vua Sở vương chiều nào cũng lên thăm thần nữ lại sớm mới về. Khi Sở vương băng th́ không c̣n ai lui tới nữa.
Nhà Tầm mất đi đâu luống để cho ba cỏ ủ ê, cho ḿnh ngơ ngẩn.
12. Tuyết đă phơi mái tóc kim sinh,
Rum đâu nhuốm múi tơ lai thế.KIM SINH: thời hiện bây giờ.
RUM: cây rum sắc đỏ.
LAI THẾ: kiếp sau.
Đành phận vô duyên trọn nkiếp này, nhưng không biết kiếp tái sinh ông tơ có xe giây lại cho ḿnh hay không.
13. Ví thân đă ly hương cấm dịch, cỏ Ly Sơn đánh lấp tóc da rồi,
Tưởng phận c̣n gieo lá ngự câu, trăng Vị thủy hăy cầm h́nh bóng lại.CẤM DỊCH: cửu trùng, chỗ vua ở.
LY SƠN: mộ của Tần thủy Hoàng ở núi Ly sơn.
NGỰ CÂU: con sông thường vua và cung phi bơi thuyền bẻ sen.
Nếu thuở trước đă được chung chăn gối cùng vua Tần thủy Hoàng th́ đă chọn theo ngài rồi – Nhưng tưởng số phận c̣n được trọn kiếp cùng ngài (chỉ Bái công) mới cầm ḿnh lại nơi cung Vị thủy này. (Cung nữ nói ḿnh vẫn c̣n trinh tiết).
14. Níp ngọc nữ sương c̣n êm đóng,
Tiếng chân nhân gió đă xa đưa.NGỌC NỮ: gái xinh như ngọc.
SƯƠNG: xem cữ sương ở câu đầu.
CHÂN NHÂN: người ngay. Nói Bái công thật ddấng vua.
Hẳn c̣n trinh tiết, - lại nghe tiếng ngài đến.
15. Ḍng Đào đường chảy róc rách xuống sông Lưu, mẹ rắn khóc giữa đường nghe cũng xót,
Mây Mang đảng kéo chần vần về đất Bái, chị Trỉ theo trong núi nghĩ mà thương.ĐÀO ĐƯỜNG: Ḍng vua Nghiêu,, Hán Cao tổ về ḍng Nghiêu.
LƯU: Hán Cao tổ họ Lưu.
MẸ RẮN: Bái công thuở hàn vi, qua rừng gặp Bạch xà, chem. một lát gươm chết mất. Sau có một bà già ôm xác con rắn mà khóc, xưng rằng mẹ con vua Bạch đế phải con vua Xích đế (chỉ Bái công) giết.
MANG ĐẢNG: núi Mang đảng là nơi Bái công trốn giặc.
BÁI: chỗ Cao tổ đóng đô.
CHỊ TRỈ: vợ Bái công là Lữ Trỉ, lúc Bái công chạy giặc thường t́m mà theo sau hoài. Cứ thấy mây năm sắc ở đâu là Bái công ở đấy.
Vẫn biết ngài là ḍng dơi nhà Nghiêu, họ Lưu - mạng thiên tử xuất hiện từ lúc ở núi Mang đảng cho đến khi về đất Bái thượng.
16. Thấy ngọn cờ, ai chẳng rượu dê mừng,
Nghe tiếng lạc, đâu không đờn sáo rước.Thấy ngài đến ai nấy đều mừng rở.
17. Bên chỉ đạo xe vôi ngựa phấn, ḍm thấy ḷng bất nhẩn những thầm thùi,
Trước kim lâu xiêm bụi áo bùn, vâng biết ư đục lưu mà khép nép.XE VÔI NGỰA PHẤN: Khi Tần vương tử Anh ra hàng th́ mặc đồ tang chế.
L̉NG BẤT NHẨN: Chỉ Bái công có ḷng bất nhẩn không giết Tần vương tử Anh khi ra hàng.
KIM LÂU: lầu ở A pḥng
XIÊM BỤI ÁO BÙN: Bái công đi đánh giặc áo quần c̣n vấy bụi.
Những khen thầm lượng cả bao dung muốn ở lại cùng ḿnh nhưng vẫn c̣n e lệ.
18. Xem khí sắc đă nên năm vẻ,
Tưởng cơ duyên ắt trọn ba sinh.Rơ ngài đáng bậc thiên tử - mừng thầm ngỡ dược cùng trọn kiếp ba sinh.
19. Bất kỳ may gặp hội rồng bay, âu lửa bén hương lây cho đáng số,
Giải cầu bổng lầm hơi khỉ tắm, để ba trôi nước chảy cũng oan t́nh.RỒNG: nói Hán Cao tổ.
KHỈ: Tích xưa nói Hạng Vơ là con khỉ.
20. Hẵng quan nha đà thiệt chúa ái nhân,
Đảnh thánh thể để cho ai oán nữ.Ngài hẳn bậc vua hiền sao nở để người oán phận nữ nhi.
21. Âu ca thuở về cùng Thuấn, Vơ, Cao Dao, Hậu tắc nào ngăn,
Huyền hoàng khi lại với Thang, Văn, Y Doăn, Châu Công há cấm.ÂU CA: Thiên hạ.
THUẤN VƠ: Vua Thuấn, vua Vơ Cao Dao, Hậu Tắc là 2 tôi tài giỏi đời Thuấn, Vơ.
HUYỀN HOÀNG: Đồ hàng gấm.
THANG, VĂN: vua Thang, vua Văn, Y Doăn và Châu Công là tôi giỏi đời Thang, Văn.
Coi đời xưa vua Thuấn, vua Vơ, về cung thiên hạ, vua Thang vua Văn thâu đồ hàng lụa cống hiến, th́ nào tôi là Y Doăn, Châu Công, Cao Dao, Hậu Tắc có ai ngăn ai cấm.
22. Sao trong trướng chưa chút chi đẹp mặt,
Mà ngoài sân đă lắm tiếng oi tai.Thiệt chưa có chút chi đẹp mặt, mà sao đă lời này tiếng nọ, can dâng vang tai (chỉ Trương Lương cùng Phàn Khoái).
23. Ngán ngẩm thay! Nắng chẳng thương hoa,
Ghê gớm bấy! mây nào xót nguyệt.NẮNG: Chỉ Trương Lương, Phàn Khoái.
MÂY: Nói Hán Cao tổ.Coi đă ngán ngẩm, ghê gớm! chẳng có ai thương xót nỗi ḿnh.
24. Ngọn xích xí ùn ùn về Bá Thượng, mưa tuôn nước chảy lạt lẽo thay t́nh,
Má Lam điền dười dười ở Quan Trung, phấn quén hương phai bỉ bàng bấy phận.XÍCH XÍ: Cờ trở
MÁ LAM ĐIỀN: Má cung nữ đẹp như ngọc Lam điền.
Ngài (chỉ Bái Công) bỏ cung Tần trở về Bá Thượng, t́nh lạc lẽo thay! luống để ḿnh phấn quén hương phai bỉ bàng bấy phận.
25. Nín thời những đeo sầu ngậm tủi,
Nói ra dường ép dấu nài yêu.26. Trất bánh xe là bởi tội Lư Tư, nào ai đem nhứt tiếu khuynh thành, mà dượng Vơ gọi vong Tần cho đáng,
Giơ vọt ngựa ấy nứt danh Châu Hậu, lấy ai đủ thập thần trị quốc, mà thầy nho rằng trợ Kiệt nên tin!BÁNH XE: Sự thay đổ trên đường chánh trị của các nước như bánh xe quay.
LƯ TƯ: Tôi nhà Tần. Người đă xui đốt sách và giết học tṛ.
DƯỢNG VƠ: Nói Phàn Khoái
NHỨT TIẾU KHUYNH THÀNH: Một nụ cười làm mất nước.
CHÂU HẬU: Bà vợ Vơ vương là Châu Hậu đi đánh giặc đă danh lừng lẩy.
THẬP PHẦN: Vơ vương có 9 người tôi giỏi. Có Châu Hậu mới đủ mười người.
THẦY NHO: Trương Lương
KIỆT: Vua Kiệt bị Văn Vương giết.
Nhà Tần mất là tội Lư Tư, chớ không phải v́ chị em tôi đâu, mà Phàn Khoái nói rằng cho đáng – Sao nghe lời Trương Lương nói đàn bà ai cũng như vợ vua Kiệt ngày xưa. Đàn bà cũng lắm người hay: không có nàng Châu Hậu th́ nhà Chu lấy đâu cho đủ thập thần mà trị nước.
27. Liếc con ngươi nào nhằm cuộc tang thương,
Uốn cái lưỡi những dày duyên phấn đại.Không biết cuộc tang thương là lẽ tự nhiên sao cứ dổ tội cho đàn bà măi ư ? (Trách Phgàn Khoái và Trương Lương).
28. Mặt bán thịt mới mua duyên năm nọ, chẳng qua binh chị nó đánh ghen thay,
Gan cắp dùi làm mất vía ngày xưa cũng v́ bởi chúa ḿnh lây giận măi.BÁN THỊT: Phàn Khoái trước là tay bán thịt, Phàn Khoái gọi Lữ Hậu bằng chị v́ Lữ Hậu là chị Lữ Tu vợ Phàn Khoái.
CẮP DÙI: Trương Lương tôi nước Hàn; Tần lấy Hàn, Lương Căm tức. Khi thấy xe Tần thủy Hoàng dạo trên Bác Lảng Sa th́ cắp một cái dùi sắt, chạy lại đâm, rủi hụt, quan quân đuổi theo làm Lương trốn mất vía.
Chẳng qua nó đánh ghen thế cho chị vợ nó (chỉ Phàn Khoái); lại với v́ chúa nó mà nó giận lây đến ḿnh (chỉ Trương Lương).
29. Sức bao nă cũng lao lư dưới bệ,
Trung với ai mà thỏ thẻ bên màn.Chẳng tài giỏi trung thành chi, sao cứ lân la nơi bệ ngọc mà ngăn đón Bái công.
30. Có chăng loài Bửu ngọc mê t́nh, ngăn giọt giải phú ông thời cũng phải,
Sao những kẻ hương ba chực phận, dứt tấm ḷng du tử thế cho cam.BỬU NGỌC: Đồ vàng ngọc châu báu.
GIỌT GIẢI: Nước miếng.
PHÚ ÔNG: Ông nhà giàu. Chỉ Bái Công.
HƯƠNG BA: Bông thơm.
DU TỬ: Người đi ngao du.
Ngài (chỉ Bái Công) dẩu có thương chị em tôi cũng không phải là quá đáng, v́ ngài cũng không phải kẻ tham tài hiếu sắc – Sao lại ngăn đón ngài.
31. Thuở Đông cư ḷng sở hiếu sao ch́u ?
Nay tây nhập sức hữu vi lại cấm !ĐÔNG CƯ: ở miền Đông; nói lúc hàn vi của Hán cao Tổ.
TÂY NHẬP: vào cung Tây. Tức là làm vua.
32. Một thời bởi dựt ḿnh oai chin quận, phải lánh ra đành đợi tướng quân vào,
Một thời quen theo dấu thú năm hồ, để dành lại lửa đem Tây tử bước.OAI CHÍN QUẬN: Nói Hạng Vơ làm bá vương chín quận.
THÚ NĂM HỒ: Đời Sở vương, Phạm Lăi đem Tây thi là người cung phi, đi chơi Ngũ Hồ.
TÂY TỬ: Nói cung nữ.
Một là người (chỉ Phàn Khoái và Trương Lương) sợ oai Hạng Vơ mà phải lánh xa; hay là người cố lần lừa để được cùng chị em tôi hưởng thú năm hồ.
33. Đă đắng nghét một liều thuốc độc,
Lại chua lè ba tấc lưỡi mềm.Đă khổ tâm mà lại c̣n lắm lời chua cay.
34. Bởi lẽ loi v́ phận khách b́nh bồng, làn kim giáp để hơi hương chẳng thấu,
Ví may mắng cũng như ai ki tảo, dặm bích y chi chút bụi nào lây.KIM GIÁP: Giáp vàng. Áo vua mặc.
KI TẢO: (Thúng: ki, Chủi: tảo) phận làm vợ; nói Lữ Hậu.
BÍCH Y: (Bích: phên y: áo), vách treo áo. Khi Hạng Vơ bắt Lữ Hậu, Lữ Hậu có đem theo một người hầu. Người ta nói rằng Lữ Hậu có tư th ông với người ấy, thường dấu vào vách treo áo.
Bởi số phận b́nh bồng, nên không được gần bệ ngọc. - Nếu may mắng được kết duyên làm vợ th́ đâu có lây nết xấu như Lữ Hậu ngày xưa.
35. Lượng bao dung dầu quyết hẹp ḥi,
Tư minh đạt có đâu lầm lỗi.Sao lại quyết hẹp ḥi – Đă là đấng trượng phu th́ có đâu đến lầm lỗi.
36. Nào thuở trước núp rừng cây nghe lạc ngựa, thấp thoáng bóng dù dạng kiệu, những than dài chí cả trượng phu,
Mà bây giờ, ngồi lầu ngọc, ngắm tranh người, xôn xao trên nệm dưới màn, lại ngănh ngôi cao Hoàng đế.TRƯỢNG PHU: Là anh hùng. Thuở hàn vi, Bái Công thường núp trong rừng mà xem đạo ngự Tần thủy Hoàng đi, nghi vệ nghiêm trang mà nói : Rơ là đấng Trượng phu.
HOÀNG ĐẾ: Hán Cao Tổ lên làm vua mới biết là sang.
(Ư nói sao lúc trước hàn vi lại muốn cho được như Tần thủy Hoàng, mà bây giờ giàu sang lại ngănh mặt làm lơ)
37. Tuy cách mặt khách c̣n lạ khách,
Nhắm trong gương ḿnh vốn yêu ḿnh.Cung nữ tự xưng ḿnh đẹp, nếu Bái Công thấy th́ chắc đem ḷng thương yêu.
38. Gượng làm màu hiếu sắc ngày xưa, th́ nơi chí bất tiểu ai ḍm, mắt nào sắc cũng không cơ cất ngọc,
Chi đến nổi kết duyên đêm quạnh, song mà ư tại trung có bức, tay nầy mềm c̣n hơn kẻ che gươm.CHÍ BẤT TIỂU: Chí không nhỏ. Bái Công biết người hiếu sắc là chí nhỏ.
CƠ CẤT NGỌC: Hạng Vơ và Phạm Tăng cố giết Bái Công; Phạm Tăng chờ lúc Bái Công sơ ư, dơ cái ngọc quyết lên th́ Hạng Vơ giết. Thế mà Phạm Tăng không làm sao cất ngọc quyết được.
Ư TẠI TRUNG CÓ BỨC: Ư ở trong có bức một chút. Phàn Khoái sợ người ta giết Bái Công nên đă “kết duyên” làm sui gia cùng Hạng Trang. Sau Hạng Bá múa gươm cùng Bái Công th́ có Hạng Trang dơ tay ra đở.
Nếu ngài hiếu sắc như thuở trước, th́ ai cũng cho là chí hèn, nên không để ư mà bày mưu mà hại ngài - Vậy th́ chúng tôi c̣n hơn là kẻ che gươm.
39. Gương trong đuốc rạng mặc ḷng trên,
Cỏ héo hoa hèn đành phận dưới.Thôi trên mặc ḷng trên, dưới ḿnh thủ phận dưới.
40. Nơi hang giá ví hơi dương đặng thấu, thời trong nước ai không thần thiếp, lọ pḥng tiêu cung quế mới vui ḷng,
Chốn non Kinh dầu vẽ ngọc mà lầm, thời dưới trời đâu chẳng giang sơn về cửa cỏ lều tranh càng mát mặt.GIÁ: Lạnh.
DƯƠNG: Mặt trời.
PH̉NG TIÊU: Buồng cung phi ở, thường có rắc hạt tiêu vào vách cho ấm.
CUNG QUẾ: Cung của cung phi.
NON KINH: Núi Kinh có ngọc tốt.
(Ư cung nữ nói nếu Bái Công lầm v́ không biết ḿnh là như ngọc quí, thà về chốn cửa cỏ lều tranh c̣n thú hơn ở chốn pḥng tiêu cung quế).
41. Âu là cũng tiếc chung mới nói, Há dám rằng giận gănh mà kêu !
42. Đừng khiếp nơi năm bước một lầu, song nghĩ thành kia nghiêng thời đở, nước kia lỡ thời nâng, khó chi vận ngũ hưng thay thánh chúa,
Xin gát nổi một cười ngh́n lượng, dám khoe canh nầy vụng những quen rượu nầy quê những thuộc, dễ có đâu tái đắc mặt giai nhân.NĂM BƯỚC MỘT LẦU: Tần thủy Hoàng làm cách 5 bước một cái lầu cho cung phi.
NGŨ HƯNG: Bái Công dựng cơ đồ trong 5 năm.
(Ư cung nữ nói dầu thành xiêu nước lở, th́ tài giỏi như Bái Công, gầy dựng lại không khó chi – C̣n như khách giai nhân (cung nữ xưng ḿnh) mà bỏ qua th́ ngày sau không dễ gặp lại).
43. Khuyên chớ cười lời khách kiêu nghiêu,
Xin gửi lạy đức ông Hoát đạt.ƯNG TRUNG, ƯNG LĂO
- Sao lục và dẫn giải -