Nói chuyện về Gia Ðình Phật Tử Miền Bắc

Thông Phương Ðặng Văn Khuê

  Hội Việt Nam Phật Giáo

 Năm 1934, hưởng ứng Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo trong nước, với sự cộng tác chặt chẽ của các vị tăng-già và cư sĩ, Hội được thành lập với danh hiệu Bắc Kỳ Phật Giáo Hội do cụ Nguyễn Năng Quốc là một trong các vị sáng lập hội viên làm Hội-trưởng. Chùa Quán Sứ là một ngôi chùa lịch sử tọa lạc tại trung tâm thành phố Hà-nội (79 phố Quán Sứ) do Hội kiến tạo lại, được dùng làm hội quán trung ương.

 Tháng 5 năm 1945, một phiên đại hội đồng được triệu tập để sửa đổi điều lệ và cũng từ đây, danh hiệu của Hội được gọi là Hội Việt Nam Phật Giáo. Ban Quản Trị Trung Ương cũng được cải tổ và suy cử Hòa-thượng Tuệ Tạng Trần Thuyên (tức là cụ Tổ Cồn) làm Hội Trưởng thay cụ Nguyễn Năng Quốc về dưỡng lão tạị Thái Ninh (thuộc tỉnh Thái Bình).

 Cuối năm 1946, chiến sự bùng nổ. Hầu hết nhân viên Ban Quản Trị đều phải tản cư khỏi thủ đô Hà-nội. Chỉ có Thượng-tọa Tố Liên với vài vị Trưởng Lão ở lại chùa Quán Sứ và phải đương đầu với mọi khó khăn.

 Năm 1947, một phiên đại hội được triệu tập. Cụ Bùi Thiện Cơ, nguyên Phó Hội Trưởng, được cử làm Hội Trưởng thay Hòa-thượng Tuệ Tạng đã lui về chùa Cồn (thuộc tỉnh Nam Ðịnh) cùng với các vị giáo sư và học tăng của trường Phật-học. Cụ Bùi Thiện Cơ đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng liền trong 3 khóa (từ năm 1947 đến 1956).

 Trải qua 20 năm hoạt động (1934-1954) tại miền Bắc, Hội đã tạo được những ảnh hưởng tốt đẹp trong đại chúng Phật-tử bởi những công cuộc truyền bá giáo lý sâu rộng. Lập nhà in Ðuốc Tuệ để ấn hành kinh sách, báo chí. Lập những đạo trường hoằng dương Phật-pháp ở khắp mọi nơi. Gây dựng các cơ sở văn hóa giáo dục (trường tiểu học Khuông Việt) để phát huy chân tinh thần Phật-giáo. Hội còn tổ chức những cơ quan từ thiện xã hội để giúp đỡ đồng bào thiếu thốn trong những thủy hỏa tai. Lập viện cô nhi nuôi dạy trẻ mồ côi học chữ, học nghề. Nhất là đã gây được một phong trào nghiên cứu và tu học Phật-pháp trong mọi giai tầng xã hội.

 Tiền Thân Gia Ðình Phật Hóa Phổ

 Do nhân duyên đặc biệt, biên giả đã được tới với Phật-pháp vào những năm 1937-1938. Lúc đó, chùa Quán Sứ mới chỉ có ngôi nhà tổ để làm chính điện. Ngôi chùa như hiện nay, mới được xây dựng năm 1940 (1).

 Lúc đó, số Phật-tử (hội viên) rất đông. Quý Thượng-tọa cùng các cư sĩ trong Ban Quản Trị đã lập một đoàn gồm con em của hội viên Phật-tử gọi là Ban Ðồng ấu để làm lễ dâng hương hoa trong các ngày đại lễ. Các em vừa sử dụng nhạc cụ dân tộc, vừa hát các bài cổ truyền bằng lời ca mới do cụ Thiều Chửu soạn. Cụ Thiều Chửu chính là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha (tác giả quyển từ điển Hán Việt) là một cư sĩ rất uyên thâm Phật-pháp. Khi tụng kinh, Cụ thường gõ đầu gối thay cho gõ mõ.

 Gia Ðình Phật Hóa Phổ

 Vào những năm 1947-1948, Thượng-tọa Tố Liên, Phó Hội Trưởng kiêm Trưởng Ban Cứu Tế Xã Hội, lập tại chùa Quán Sứ một cô nhi vie.n để nuôi dạy 200 trẻ mồ côi lớp tuổi thiếu niên, nhi đồng và một trường tiểu học là trường Khuông Vie.t. Trường này do giáo sư Nguyễn Ngọc Quỳnh (2) làm Hiệu-trưởng. Cô nhi viện do các đạo hữu Nguyễn Văn Xếnh, Ðặng Văn Khuê phụ trách vừa dạy chữ, vừa dạy nghề cho các em. Ðể tiện điều động, các em được chia theo Toán (Ðội), Ðoàn do các em lớn trông nom các em nhỏ. Tổ chức Ðội, Ðoàn đã hình thành từ đây. Hàng ngày, các em đều có giờ tụng kinh sáng và tối. Mỗi Thứ Năm hàng tuần (3) các em cùng với học sinh trường Khuông Việt được học Phật-pháp, lúc đó gọi là giờ Giáo-lý, do quý Ðại-đức trong chùa phụ trách. Môn Phật-pháp được kể là môn học bắt buộc. Ðược sự quan tâm đặc biệt của Thượng-tọa Tố Liên, các học sinh trường Khuông Việt được đoàn ngũ hóa thành đoàn Thiếu-niên, Ðồng-niên. Mỗi sáng Chủ Nhật, các em tập trung đến chùa lễ Phật và được hướng dẫn các bài hát, các môn hoạt động thanh niên. Dần dần tiến đến việc may đồng phục. Ðây chính là lúc Gia đình Phật Hóa Phổ hình thành.

 Tới năm 1949-1950, Gia Ðình Phật Hóa Phổ đã lớn mạnh, đã được tổ chức thành Ðoàn, Ðội, Chúng và có hai ngành Nam, Nữ do các huynh trưởng phụ trách. Tại chùa Quán Sứ, Gia đình Minh Tâm được thành lập. Ðây là Gia Ðình Phật Hóa Phổ đầu tiên tại miền Bắc.

 Các em cô nhi ngày thêm nhiều. Hội Việt Nam Phật Giáo phải rời 200 em đến hội Tế-sinh do đạo hữu Ðặng Văn Khuê trông nom từ tháng 11/1950. Ban phụ trách trường Bảo Trợ Giáo Duc Nhi Ðồng tại khu Tế Sinh gồm có: Cư sĩ Tuyết, quản lý, lo ăn ở. Ðạo hữu Khuê, giáo viên kiêm giám thị. Chi Nguyệt, giáo viên.Bác si Kha, Bác sĩ Toàn, săn sóc sức khỏe. Tại đây, đạo hữu Khuê đã lập Gia Ðình Phật Hóa Phổ Thiện Tuệ.

 Gia Ðình Phật Tử

 Vào ngày Phật-đản năm 1951, tại chùa Từ Ðàm ở Huế đã diễn ra một sự kiện trọng đại của Phật-giáo Việt Nam: Sáu Tập-đoàn Phật-giáo ba miền đất nước đã thống nhất dưới danh xưng Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Trong dịp này, nhạc sĩ Phật-tử Lê Cao Phan đã sáng tác bài Phật Giáo Việt Nam. Do sư kiện thống nhất này, trại huấn luyện huynh trưởng đầu tiên có sự tham dự của cả ba miền được tổ chức ở Huế. Ðó là trại Kim Cang. Bắc Việt có các anh (Tâm Thiết) Lê Vinh, (Thông Phương) Ðâặng Văn Khuê và (Chân Quang) Trần Thanh Hiệp dự trại.

 Sau gia đình Minh Tâm, lần lượt các gia đình: Liên Hoa, Phả Quang, Minh Ðạo và Từ Quang được thành lập. Tại chùa Quán Sứ, gia đình Minh Tâm do bác Viên Quang (TTK hội VNPG) làm Gia-trưởng. Quý Ðại-đức Thích Tâm Giác, Thích Thanh Kiểm làm Cố-vấn Giáo-lý. Có thể nói, đây là một gia đình tiêu biểu và mạnh nhất của Hà-nội lúc bấy giờ với ban huynh trưởng hùng hậu gồm các anh: Lê Vinh, Ðặng Văn Khuê, Trần Thanh Hiệp, Ðỗ Bội Quyết, cùng các chị: Tuệ Ngọc, Tuệ Nga, Trần Thị Ngọ, Diệu Minh. Ðặc biệt có sự cộng tác của anh Trần Trung Du, một huynh trưởng Hướng-đạo, trong các công tác huấn luyện về kỹ năng sinh hoạt thanh niên. Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử Bắc Việt trực thuộc hội Việt Nam Phật Giáo, do bác Nguyễn Văn Nhã làm Trưởng Ban, được thành lập để điều hợp các Gia Ðình Phật Tử tại Bắc Việt vào nền nếp.

  Năm 1952, một hội nghị Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc họp tại chùa Quán Sứ Hà-nội. Dịp này, anh Võ Ðình Cường hướng dẫn phái đoàn Gia Ðình Phật Tử miền Trung ra thăm Hà-nội để vận động thống nhất Gia Ðình Phật Tử. Thực tế lúc bấy giờ, Gia Ðình Phật Tử ba miền (Bắc, Trung, Nam) còn nhiều khác biệt. Chẳng hạn, Gia Ðình Phật Tử Bắc Việt tụng kinh Thiện Sinh (Sáu Phương) là chính.  Riêng Gia Ðình Minh Tâm dù sinh hoạt đã nhiều năm, nhưng đến đại lễ Thành-đạo năm này (năm Nhâm Thìn - 1952), mới được chính thức công nhận.

  Ngày mồng1 tháng 1 năm 1953, một kỷ nguyên mới đã mở đầu. Ðại Hội Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử Toàn Quốc đã bầu được một Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử Trung Ương, thông qua Nội-quy và thống nhất chương trình tu học. Phái đoàn Bắc Việt có: Bác Nguyễn Văn Nhã (Trưởng Ban Hướng Dẫn - BV), anh Lãm và các chị: Tuệ Mai, chị Ni (sau này xuất gia pháp danh Sư Bà Hải Triều Âm), chị Diệu Minh, chị Ty.

  Gia Ðình Phật Tử ngày càng phát triển trên miền Bắc Việt. Bắt đầu từ Hà-nội lan ra khắp nơi như: Hải-phòng, Hải-dương, Hà-đông, Sơn-tây, Bắc-ninh, Bắc-giang, đâu đâu cũng có Gia Ðình Phật Tử. Nhu cầu huấn luyện huynh trưởng được đặt ra và trở nên cấp thiết. Vào các năm 1953-1954, các anh Nguyễn Minh Hiền (Lữ Hồ), Phạm Mạnh Cương, Minh Tuyền (Lê Nguyễn Bá Tước) từ Huế ra Hà-nội học đã tăng cường thêm sức hoạt động cho Gia Ðình Phật Tử Hà-nội nói riêng, Bắc Việt nói chung thêm khởi sắc. Những địa danh: Voi Phục, Láng, Ngọc Hà, Quảng Bá, Thụy Khê (Hà-nội), Chùa Thầy (Sơn-tây), Chùa Trầm, Trăm Gian (Hà-đông) trở nên quá quen thuộc với Gia Ðình Phật Tử. Các trại huấn luyện Ðoàn, Ðội, Chúng trưởng, liên tục được tổ chức. Trại Vô Ưu do anh Nguyễn Minh Hiền làm Trại-trưởng, tổ chức vào đầu năm 1954 được kể là trại cuối cùng để đánh dấu một chặng trên đường phát triển của Gia Ðình Phật Tử Bắc Việt.

  Kết Luận

  Còn lớp thanh thiếu đồng niên Tin Phật, còn huynh trưởng nguyên vẹn tấm lòng yêu thương trẻ, điều tất yếu Gia Ðình Lam sẽ là bông hoa tỏa ngát hương thơm trên nền đất quê hương đằm thắm Tình Ðạo - Tình Người.

  Saigon, Mùa Xuân 1993
Thông Phương Ðặng Văn Khuê

Ghi Chú:
(1) Có tài liệu ghi là năm 1942
(2) Giáo sư Nguyễn Ngọc Quỳnh là thân phụ Thượng-tọa Thích Trí Huệ Trụ trì chùa Linh Sơn, Houston, tiểu bang Texas, Hoa-kỳ.
(3) Thời gian này, hàng tuần học sinh được nghỉ học hai ngày Thứ Năm và Chủ Nhật  

  ( * )  Trở về Mục Lục