Tác
Giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Đầu Tiên
Của
Nước Việt Nam.
Phúc
Trung
*
Từ trước cho đến nay, người ta cho rằng bài thơ :
南 國 山 河 南 帝 居
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
截 然 定 分 在 天 書
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
如 何 逆 虜 來 侵 犯
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
汝 等 行 看 取 敗 虛 ( 1 )
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
là của Lư Thường Kiệt, v́ trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên có nói đến bài thơ này, liên quan đến chiến thắng lẫy lừng của Lư Thường Kiệt đối với quân nhà Tống, nên người sau cho rằng bài thơ ấy của Lư Thường Kiệt.
Theo Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Tập 2, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đă trích dẫn từ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư viết về nguồn gốc bài thơ ấy như sau :
“Thế
truyền rằng, Thường Kiệt dựng rào dọc
sông để cố giữ. Một đêm quân sĩ
bỗng nghe trong đền Trương tướng quân có
tiếng to ngâm rằng :
Nước
Nam sông núi vua Nam ở
Rành
rẽ định phân tại sách trời
Giặc
nghịch sao nay dám đến phạm
Chúng
bay chuốc bại chắc ngay thôi
(Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư)
Rồi
sao quả như thế. Trương tướng quân anh em
hai người. Anh tên Hống, em tên Hát, đều là danh
tướng của Triệu Việt Vương. Triệu
Việt Vương bị Lư Nam Đế đánh bại mà
mất nước. Nam đế cho vời ra làm quan. Hai người
đều nói:”Trung thần không thờ vị vua đă
hại chúa ḿnh”, rồi bèn bỏ trốn ở núi Phù
Long. Nam Đế nhiều lần mời không đáp, ra
lệnh: “Ai lấy được thủ cấp th́
trọng thưởng cho ngàn vàng”. Hai người đều
uống thuốc độc mà chết.
Nam Tấn Vương nhà Ngô khi đánh giặc Lư Huy châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, chiêm bao thấy hai người theo giúp quân vua, nói rằng: “Thiên đế thương là kẻ trung thần không thờ hai vua, bổ cho làm Than hà long quân phó tuần Vũ lạng nhị giang và Chi man nguyên tuần giang đô phó sứ. B́nh định giặc rồi, Nam Tấn Vương phong cho anh làm Đại đương giang đô hộ quốc thần vương, dựng đền thờ ở song Như Nguyệt. C̣n em làm Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương, dựng đền thờ ở cửa sông Nam Quân, tức đền thờ này”. ( 2 )
C̣n trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp có truyện :
TRUYỆN
HAI VỊ THẦN
LONG
NHĂN VÀ NHƯ NGUYỆT
Năm
Thiên Phúc của Lê Đại Hành Hoàng đế tức là
năm Tân tỵ, vua Thái Tông nhà Tống sai tướng quân
Hầu Nhân Bửu, Tôn Hoàng Hưng đem binh Nam xâm;
họ đến sông Đại Than th́ vua Đại Hành
cùng với tướng quân Phạm Cự Lượng dàn
quân ở Đồ Lỗ để chống cự, đối
lũy cùng giữ.
Vua
Đại Hành mộng thấy hai vị thần đến
lạy ở trên song và thưa rằng:
- Anh
em thần tên là Trương Hống và Trương Hát
nguyên trước thờ vua Triệu Việt Vương,
thường theo vua đánh dẹp nghịch tặc lấy
được thiên hạ. Sau vua Lư Nam Đế cướp
ngôi, nghe tiếng anh em thần mới bảo người
đến vời, bọn thần v́ nghĩa không thể
đến nên cùng nhau uống thuốc độc tự
tử. Thượng đế thương người có
công, khen là trung nghĩa nhất tiết, cho làm chức
Quỉ Bộ Tướng quân thống lĩnh quỉ binh.
Bây giờ thấy binh Tống vào cơi nhà làm khổ cho sinh
linh nước kia nên anh em thần đến đây ra
mắt với Hoàng đế, nguyện giúp ngài đánh
giặc để cứu sinh linh.
Vua
Đại Hành giật ḿnh tỉnh dậy, bảo thị
thần rằng :
-
Ấy là thần nhân giúp ta.
Lập
tức đến trước ngự thuyền đốt
hương vái rằng:
-
Thần lực nếu có thể giúp cho công nghiệp này
hoàn thành th́ được ban phong huyết thực,
vạn đại vô cương.
Bèn
giết trâu ḅ cúng tế và cho áo măo, giấy tiền, voi
ngựa đốt đi. Đêm ấy, lại mộng
thấy hai vị thần đều mặc áo măo đă
ban cho hôm trước đến lạy tạ ơn. Đêm
sau lại thấy một vị thần thống lĩnh
quỉ bộ áo trắng từ phía nam song B́nh giang đi
lại, một vị thần thống lĩnh quỉ
bộ áo đỏ do sông Như nguyệt mà xuống,
cả hai đều đến đánh doanh giặc.
Ngày
hai mươi mốt tháng mười, đêm
đương canh ba, thiên khí hôn ám, gió to mưa lớn
cả dậy; binh Tống kinh sợ thấy thần lờ
mờ đứng ở trên không, cao giọng ngâm rằng:
Nam
quốc sơn hà Nam đế cư,
Phân
minh định phận tại Thiên thư.
Cớ
sao nghịch lỗ sang xâm phạm,
Bọn
chúng chờ xem phải bại hư.
Binh
Tống nghe vậy, xô đạp nhau chạy tán loạn,
bị bắt sống không xiết kể. Quân nhà Tống
đại bại trở về. Vua Đại Hành lui quân,
dâng lễ mừng thắng trận, bao phong hai vị
thần: Ông anh là Uy Địch Đại Vương,
lập đền thờ ở ngă ba sông Long nhăn, bảo dân
Long nhăn B́nh giang phụng tự; Ông em là Khước Địch
Đại Vương, lập đền thờ ở sông
Như nguyệt, bảo dân duyên giang ( 3 ) phụng
tự, đến nay vẫn c̣n vậy.( 4 )
Theo
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát dẫn chứng trong Lịch
Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập 2, bài thơ trên không
phải do Lư Thường Kiệt sáng tác, chính là do nhà sư
Pháp Thuận sáng tác trong thời gian vua Lê Đại Hành
cần áp dụng chiến tranh tâm lư để cho quân sĩ
vững ḷng tin chống chọi đại quân nhà Tống,
và nhờ thế mang lại chiến thắng vẻ vang năm
981.
Khẳng
định sư Pháp Thuận tác giả bài thơ trên là
khẳng định định đúng đắn, bởi
v́ sư Pháp Thuận là một vị Sư cố vấn
hay tham mưu cho Lê Đại Hành, nên Sư được
vua tin cẩn hỏi về chính sự, Sư đă bày
tỏ trong bài :
答
國祚之問
Đáp
quốc tộ chi vấn
國
祚
如
籐
絡
Quốc tộ như đằng
lạc,
南
天
里
太
平
Nam thiên lư thái b́nh
無
爲
居
殿
閣
Vô vi cư điện các
處
處
息
刀
兵
Xứ xứ tức đao binh
Trả
Lời Câu Hỏi Về Ngôi Nước
Ngôi nước như mây
quấn,
Trời Nam mở thái b́nh.
Vô vi trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao
binh
Đoàn
Thăng dịch (
5 )
Sư
cũng được vua Lê cho cải trang làm người
lái đ̣ để theo dơi hành động của
Nguyễn Giác. Lúc ở trên đ̣, sứ Tống
bất chợt thấy hai con ngỗng bơi trên sông,
cảm hứng liền ngâm:
鵝
鵝
兩
鵝
鵝
Nga nga lưỡng nga nga
仰
面
向
天
家
Ngưỡng diện hướng
thiên gia
(Song song ngỗng một đôi,
Ngữa mặt ngó ven trời.)
Sư
đang chèo đ̣, ứng khẩu ngâm tiếp:
白
毛
鋪
綠
水
Bạch mao phô lục thủy
红
棹
擺
青
波
Hồng trạo băi thanh ba
(Lông trắng phơi ḍng
biếc,
Sóng xanh chân hồng bơi.) (
6 )
Những
đặc điểm trên chứng tỏ sư Pháp
Thuận đă giúp vua Lê rất đắc lực, để
đem lại thái b́nh cho nhân dân, cho nên khẳng định
Sư đă sáng tác bài thơ trên để tác động
tâm lư của quân sĩ, tạo một niềm tin quyết
thắng sau này.
C̣n
một điểm nữa là Ngô Sĩ Liên viết Tựa
của Đại Việt Sử Kư Toàn Thư năm 1479, c̣n
Vũ
Quỳnh và Kiều Phú viết Tựa hiệu chính Lĩnh
Nam Chích Quái năm 1492 và 1493, cho biết rằng không
biết tác giả là ai, như vậy những nhà nghiên
cứu đều đồng ư là tác giả Lĩnh Nam Chích
Quái viết trước đó rất xa và họ cho
Trần Thế Pháp là tác giả, đă sáng tác Lĩnh Nam
Chích Quái trong khoảng từ năm 1370 đến 1400. Có
nghĩa là sách được sáng tác trước
quyển Sử Kư của Ngô Sĩ Liên, nên bài thơ
ấy đáng tin là của sư Pháp Thuận.
Nhiều người đọc sách Lĩnh Nam Chích Quái nhưng chắc ít có ai như Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đă tra cứu, đối chiếu để đưa bài thơ trả về cho tác giả đích thực của nó.
Nó không phải là một bài thơ
chỉ có tác động tinh thần quân sĩ để
quyết thắng quân Tống mà c̣n là Bản Tuyên Ngôn
Độc Lập v́ nó khẳng định vị
thế độc lập và tự chủ của nước
ta nên
được coi là Bản Tuyên Ngôn Độc đầu
tiên của nước Việt Nam, Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập thứ hai là
B́nh Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trăi và Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
Thứ Ba là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chánh
Phủ Liên Hiệp Quốc Cộng sau 80 năm bị Pháp
đô hộ, được tuyên cáo năm 1945.
Đặt lại cho đúng tác giả của bản Tuyên Ngôn Độc Lập trên, chẳng những chúng ta đă ǵn giữ được nền văn hóa của tiền nhân để lại, mà chúng ta c̣n có bổn phận phát huy ngày thêm xán lạn.
Ngày 9 tháng 6 năm
2006
Ghi
chú :
( 1 )
Trong Lĩnh Nam chích quái viết :
汝
等 徒
看 取 敗 虛
Nhữ
đẳng đồ khan thủ bại hư.
(
2 ) Lê Mạnh Thát Lịch Sử Phật Giáo
Việt Nam, Tập 2 NXB/TP/HCM, 1999
(
3 ) Ở men sông.
(
4 ) Trần Thế Pháp Lĩnh Nam Chích Quái NXB Khai
Trí Sàig̣n, 1961
( 5 ) Cao Tự Thanh Việt Nam Bách Gia Thi NXB Văn Hóa Sàig̣n, 2005
( 6 ) Lê Mạnh Thát Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh NXB/TP/HCM, 1999