Những bài quan trọng đăng trong bns Nhân Văn
*
Nhân Văn sô 1 phỏng vấn Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
Số1, ngày 20-9-1956
Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ
Ư kiến của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Giáo sư Đại học
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997)
Câu hỏi:
- Theo ư ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những ǵ để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?
- Theo ư ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông th́ chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng răi những vấn đề ǵ?
Trả lời:
- Các tự do tư tưởng, ngôn luận, nghiên cứu, sáng tác, toàn là những tự do dân chủ. Qua phong trào phát động dân chủ do Đảng Lao động, Chính phủ và Mặt trận chủ trương và tổ chức, ta nhận thấy sự thực hiện dân chủ trong 2 năm vừa qua c̣n thiếu sót nhiều. Nguyên do ở đâu? Theo ư tôi là v́:
- Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa ĺa quần chúng, và tạo ra t́nh trạng đối lập quần chúng với ḿnh. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.
- Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đ̣i thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ư thức dân chủ cho quần chúng.
Sở dĩ tinh thần dân chủ c̣n thiếu sót hiện thời là v́ trong thời ḱ kháng chiến vừa qua, quyền hưởng các tự do dân chủ gặp nhiều trở ngại do cuộc chiến đấu vơ trang giành độc lập tạo ra. Khi ấy, quần chúng nhận định rằng chưa phải lúc đ̣i hỏi các tự do dân chủ. Bây giờ ta đă chuyển sang đấu tranh chính trị trong hoà b́nh, nhưng có một số chưa có nhận thức rơ điều ấy và tiếp tục duy tŕ tác phong hạn chế dân chủ. Đó là một sai lầm nghiêm trọng. V́ trên trường quốc tế, phong trào dân chủ rất mạnh, song song với phong trào hoà b́nh. V́ trong nước có thực hiện được đầy đủ dân chủ ở miền Bắc th́ mới có lợi cho cuộc tranh đấu thống nhất đất nước.
Có người, để chối từ thực hiện dân chủ, nói rằng nếu ta làm như vậy, sẽ có người lạm dụng các tự do dân chủ. Nhận định như vậy không đúng. Đứng trên lập trường cách mạngh, ta phải tín nhiệm quần chúng, đặc biệt quần chúng trí thức hết sức thiết tha với các tự do dân chủ và sẵn sàng mang hết khả năng ra phục vụ nhân dân, nếu được sống trong một bầu không khí thực sự dân chủ.
- Đối với ngành Đại học, vấn đề chủ yếu là xây dựng một nền đại học xứng đáng với chính thể của chúng ta, với sự đ̣i hỏi của quần chúng trong Nam cũng như ngoài Bắc, với dư luận trên trường quốc tế. Do đó, theo ư tôi và ư các giáo sư đại học Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Lỗ, Tiệp mà tôi vừa được tiếp xúc trên trường quốc tế, thi Đại học của ta phải xây dựng trên cơ sở 2 nguyên tắc:
- Tác phong của cấp lănh đạo phải thật sự dân chủ. Quyền quyết định là do cấp lănh đạo sử dụng, nhưng nếu tranh thủ được ư kiến của quần chúng cơ sở có đủ điều kiện để nhận định t́nh h́nh và để đề đạt nguyện vọng, th́ quyết nghị của cấp lănh đạo mới có hy vọng đảm bảo được tổ chức và đưa công tác đến chỗ thành công.
- Lựa chọn cán bộ th́ phải dựa vào tiêu chuẩn chuyên môn là chính. Dĩ nhiên cán bộ th́ phải có lập trường chính trị, điều ấy không ai chối căi. Nhưng nếu chỉ có lập trường chính trị mà thôi th́ chưa đủ v́ thực hiện công tác phải đủ khả năng chuyên môn. Đảm bảo được một giáo tŕnh đại học không phải là một việc chỉ đ̣i hỏi ở cán bộ một hay hai năm nghiên cứu. Đặt một người vào một cương vị đại học không khó: chỉ cần một chữ kư. Nhưng người được đặt vào cương vị ấy, muốn chứng minh rằng ḿnh xứng đáng, sẽ gặp rất nhiều trở ngại nếu ḿnh thiếu khả năng chuyên môn. Điều động cán bộ vào đại học không thế giải quyết theo cảm t́nh, trái lại phải giải quyết trên nguyên tắc của nền giáo dục mới và chính sách đối với trí thức. Không thể chú trọng đến cá nhân mà phải chú trọng đến tổ chức. Dư luận của quảng đại quần chúng trong nước từ Nam chí Bắc, và trên trường quốc tế, rất sáng suốt và theo rơi t́nh h́nh Đại học của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Nếu quả thực ta quư trọng chính thể của ta, nhất định ta không để một ai có thể dị nghị về chính sách đối với trí thức nói chung, đối với đại học nói riêng.
Sẽ đăng: Ư kiến bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đ́nh Thi v.v…
Nhân câu chuyện mấy người tự tử
Lê Đạt
Đọc báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
V́ câu chuyện t́nh duyên trắc trở
Đêm mùa hè nóng nôi
như lửa
Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận, vừa thương mấy người xấu số
Chân chưa đi hết nửa đường đời
Đă vội nằm im dưới mộ
Cuộc sống cho dù lắm mưa
nhiều gió
Nhiều cay đắng xót xa
Cũng c̣n đẹp gấp vạn lần cái chết
Chết là hết
hết đau
hết khổ
Nhưng cũng hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp t́m nhau
Len lén, bước chân ḥ hẹn
Bây giờ gặp gỡ nơi đâu?
Dù có chết cùng nhau
Cũng vẫn là chia tay vĩnh viễn
Trời đầu xuân mây vần băo chuyển
Có lạnh không?
Tôi biết hai người khổ lắm
C̣n ǵ buồn bằng không được yêu nhau
Nhưng sao lại chết?
Nhà đạo đức vuốt hàng râu mép
Hạ kính
lắc đầu
Chép miệng
"Ḥa b́nh chủ nghĩa"
Tôi không nghĩ vội vàng như thế
Tôi đă từng yêu
từng đă khổ nhiều
Nhưng không thể tán thành cái chết
Tôi không thích loại cúi đầu theo số kiếp
Không sống cùng nhau
Thà chết cùng nhau
Con người ta cần cứng một cái đầu
Chọi nhau cùng số kiếp
Cắn răng vào cứ sống cứ yêu
Khi Lương Sơn Bá tương tư trên giường bệnh
Ngày một vơ vàng
Ôm bóng người yêu mà chết
Khi Chúc Anh Đài xăm xăm vào huyệt
Theo nhau cho trọn lời nguyền,
Cả rạp lặng yên
Những chiếc khăn tay đầm đ́a nước mắt,
Sự thật cuộc đời đắng cay hơn nghệ thuật,
Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài
Sống không được yêu nhau,
Chết c̣n được hóa thành đôi bướm,
Nhưng mấy người tự tử
Xác bây giờ mục nát dưới mồ,
Biết ai thương họ?
Có phải v́ chúng ta quá yêu người cũ
Mà quên người sống bây giờ?
Có phải v́ chúng ta mất nhiều trong Kháng chiến,
Nên chủ trương tiết kiệm ḷng ḿnh?
Có phải v́ chúng ta muôn việc rối tinh
Đành xếp lại chuyện mấy người tự tử?
Lịch sử trải qua bao nhiêu đau khổ
Những người chết thiêu trong lửa
Những người chết gục trong tù
Những người chết treo trên cột
Tùng xẻo lăng tŕ
Rỏ máu trên bàn thờ nhân loại
Cho con người được làm người
Cho con người được yêu được sống
Tôi muốn gào lên cho đến khi lạc giọng:
"Không ǵ đau thương
bằng
mất một con người
Sao họ lại đưa nhau đi tự tử
Có phải họ không bằng ḷng chế độ
Bất măn với cuộc đời?
Không.
Họ chưa hai mươi
Cô bé hôm nào mới lớn
Soi trộm vào gương, thấy má ḿnh hồng
Nghĩ đến chuyện lấy chồng
đỏ mặt
Người con trai ngồi trên g̣ đất
Thổi sáo gọi người yêu
Làm nắng chiều
dừng lại
Lúa đương th́ con gái
Cũng thấy rộn trong ḷng
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu bàn chuyện tương lai
Thôn xóm tan dần bóng đen địa chủ
Cuộc đời như ánh trăng mỗi ngày một tỏ
Sáng bừng lên
trong những chiếc hôn đầu
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngă tư
đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt t́nh cảm ngược xuôi
Theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Ngày Phật đản vừa rồi được nghỉ
Tôi đến nhà Văn Cao
Hai đứa rủ nhau
đi ăn thịt chó
Văn Cao vốn là người nể vợ
Ăn xong mua một gói về nhà
Tôi bỗng giật ḿnh,
(nhưng không để lộ ra)
Người chủ xé thơ tôi
gói thịt
Ngay lúc đó tôi chỉ c̣n muốn chết
Như dại như điên tôi oán đất, oán trời.
Nhưng hôm nay tôi chỉ oán ḿnh tôi
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
V́ tôi đă ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim kêu
"Tốt tốt!
xà và!
tốt tốt!"
Qua thơ tôi
cuộc đời như hết chuyện
Có thể khoanh tay yên trí đi nằm
Như Thượng đế bước sang ngày thứ tám
Không! Không!
bóng những ngày xưa u ám
C̣n lởn vởn che cuộc đời như gấu ăn giăng
Cải cách đợt năm
Tôi có qua thăm nhiều thôn xóm
Những cây lúa cúi đầu dưới ruộng
Đă ngẩng mặt lên trời
Mơ ước mấy ngh́n đời
biểu t́nh trên dăy thẻ
Lũy tre làng phơi phới bay xa
Mở rộng cửa đón những ông chủ mới
Ruộng đất nông dân được đội về cởi trói
Nhưng c̣n tim
c̣n óc con người?
Giữa năm Cộng ḥa lớn khôn mười một tuổi
Vẫn c̣n lọt lưới
nhiều thói "an nam"
Dán nhăn hiệu
"Made in Cách mạng"
Ngang nhiên xúc phạm con người
Đẩy họ đi tự tử.
Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không ǵ ngăn cản con người.
Hà Nội, tháng 6-56
Lê Đạt
------------------
Ảnh Trần Dần do Nguyễn Sáng kư họa (có vết cắt cổ)
----------------------
Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần
Hoàng Cầm
![]()
Lời toà soạn báo Nhân văn số 1, ra ngày 20.9.1956
Ít lâu nay, nhất là trong giới văn nghệ, vấn đề Trần Dần được nhiều người nhắc tới. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà chính là v́ vấn đề Trần Dần không c̣n là một vấn đề riêng của anh hay của một số người nào, mà là vấn đề của chung, có liên quan tới quyền chính đáng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác của tất cả mọi người.
Theo tinh thần đó, chúng tôi đăng bài này.
Lần đầu tiên tôi biết Trần Dần là trong một trại hè của các đoàn văn công quân đội năm (19…) Dáng người thấp, hơi thô, tay chân chắc nịnh, lúc nói chuyện thường ồn ào, giọng cười thẳng thắn, ṛn ră. Đôi mắt xếch với cặp mày rậm làm cho khuôn mặt anh dữ tợn, nhưng đến khi anh há mồm ra cười th́ trông lại như một đứa trẻ con.
Tôi biết tiếng anh từ lâu - Ở bộ đội Sơn La, từ đầu năm 1947, nổi tiếng có một anh Trần Dần nào đó thường vẽ và làm thơ có nhiều cái rất lạ, anh em văn nghệ xung quanh th́ rất thích nhưng đồn rằng bộ đội th́ không hiểu và một số cán bộ chính trị ở đơn vị th́ lấy làm bực ḿnh.
Tới trại hè năm 1951, các đoàn văn công nỗ lực tập luyện để phục vụ một chiến dịch lớn. Trần Dần phụ trách huấn luyện cho mấy trăm anh chị em: sáng tác đạo diễn và diễn viên. Trong bóng rợp của một rừng nứa, giọng anh rủ rỉ như lời tâm sự, giảng về văn nghệ nhân dân. Văn nghệ do dân, v́ dân, có Đảng lănh đạo. Giọng anh thấm thía từng ngày lên lớp. Mấy trăm anh chị em lần đầu tiên được học một tài liệu dài đến gần hai tháng, đều vui trong ḷng như một người đi trong đêm rét, chợt nh́n thấy lửa ấm của một túp nhà. Học xong tài liệu Văn nghệ nhân dân, anh chị em say sưa công tác hơn v́ người giảng viên Trần Dần đă thổi vào tâm sự mọi người một cái tự hào. Đến bây giờ tôi (…) [1] Lỗ Tấn mà Trần Dần đọc ra để dẫn chứng cho tài liệu:
Hoành mi lễnh dối thiên phu chỉ
Phủ thủ cam nhi nhụ tử ngưu
Học xong phần lư luận có thể nói hầu hết anh chị em văn công đều yêu mến Trần Dần như một người bạn từ lâu lắm. Những người có chuyện riêng gỡ măi không ra, đều t́m đến hỏi Trần Dần. Một anh sắp lấy vợ, một chị bị ép chồng, một diễn viên già có vợ ở vùng tạm chiến, đều đến t́m Trần Dần – không phải là một câu trả lời thoả đáng – nhưng chính là một sự an ủi, một câu nói chí t́nh, và để nghe ở anh cái giọng cười quen thuộc, giọng cười vô tư, rất yêu đời.
Dần dần anh chị em gọi Trần Dần là “thày tướng” và lắm khi tin anh như một người đau khổ ngày trước tin số mệnh, đă đặt cho anh một cái tên “Trần Dần cốc tử”.
Hồi ấy Trần Dần yêu một nữ diễn viên văn công. Vốn tính cương trực, lỗ măng, anh không biết cách nào khéo léo để lấy ḷng yêu của người đàn bà. Anh không biết nói đẹp, nói hay, chỉ non thề bể, xem lá rụng, hoa tàn để vừa ư một cô gái rất đỏng đảnh. Gặp cô, anh “tấn công” luôn, rất thô kệch. Cô ấy sợ, và chạy trốn. Anh đuổi không kịp.
Rồi anh thất vọng to, và cũng biết khóc. Một lần bắt chợt anh ôm đầu khóc, tôi kéo mấy anh bạn vào xem: “Vào đây xem voi chảy nước mắt các cậu ơi!” Măi về sau h́nh ảnh cô gái đó đột hiện lên, tươi roi rói, đẹp và anh dũng trong những trang đầy nhiệt huyết của cuốn truyện Người người lớp lớp [2] .
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Dần thức thâu đêm suốt sáng để viết bản thảo lần thứ ba cuốn truyện về những người đă tạo ra chiến thắng lịch sử lớn lao đó. Dạo ấy tôi thấy anh gầy rộc đi, mắt trũng trong một quầng thâm rộng. Nhưng mắt anh có những tia sáng mới. Anh biết anh đang luyện ng̣i bút cho thật sắc sảo, “có sác sảo mới diễn tả hết con người và cuộc đời”. Anh rất ghét lối viết dễ dăi, tạm bợ, tả bộ đội chỉ thấy súng nổ, lửa bốc, chỉ thấy uỳnh oàng mà chẳng thấy người. Anh gọi những loại văn đó là: văn chương khói lửa mịt mù. Nh́n vào những trang sách, độc giả t́m kiếm măi mà chưa thấy một người, chưa thấy việc đời, chỉ thấy lổn nhổn những bộ máy lắp đi lắp lại và một lô danh từ, h́nh ảnh trống rỗng, thùng rỗng kêu to.
“Nhưng cái hướng chính của tôi không phải là tiểu thuyết. Hướng đi của tôi là thơ. Tôi sẽ t́m ṭi trong thơ và cố gắng tạo ra một lỗi diễn tả riêng biệt – không phải lập dị- nhưng độc đáo.”
Trần Dần đă nói với tôi như vậy sau khi anh viết xong Người người lớp lớp. Hồi đó, anh có đưa tôi xem tập thơ làm đă lâu: Tiếng trống tương lai [3] .
Đọc lần đầu tiên, tôi không thích. Tôi cho Trần Dần là lập dị. Đọc lần thứ hai, thứ ba, tôi vẫn không thấy thích, nhưng dần dần t́m ra được nhiều cái mới lạ, khác với nếp cũ thông thường. Tuy nhiên, tôi vẫn không thấy thích cái lối thơ ấy. Dần dà đọc nhều bài thơ anh làm về sau, tôi càng thấy “cái anh chàng này khác thường”. Khác thường theo ư tôi chưa chắc là đă hay. Dù sao do thơ Trần Dần, tôi suy nghĩ nhiều về trách nhiệm người làm thơ trước cuộc đời: đi sâu vào đời sống có suy nghĩ của con người, t́m cách diễn tả riêng, tạo ra một thế giới riêng cho ḿnh. Tôi thấy thơ Trần Dần có phần đau xót, u ám, nhiều khi rất buồn, vừa cộc cằn lại vừa có cái tự hào sôi nổi, nhiệt t́nh thẳng thắn, táo bạo.
Nhưng giọng thơ của anh, vẫn không lọt được vào tâm hồn tôi - một người làm thơ theo một ḍng khác. Dù sao tôi vẫn trân trọng và quư mến những cái t́m ṭi của Trần Dần trong thơ. Tôi cũng nghĩ như anh thường nói: Mỗi người làm một kiểu. Có thơ như tiếng sáo, có thơ như tiếng kèn, có thơ như tiếng trống. Đừng bắt thơ ai phải giống ai. Có thế mới thành một cuộc “hoà âm” lớn của thi ca. Độc giả thơ cũng ví như người xem xiếc. Có người thích kiểu tung cầu, kiểu đứng trên lưng ngựa. Lại có người thích xem dạy hổ, leo dây. Nhiều khi sợ đến rùng ḿnh, nhắm mắt. Mỗi ḍng thơ thích hợp cho một loại độc giả. Có thế mới trăm hoa đua nở được. G̣ bó theo ư thích chủ quan của một vài người, thơ sẽ thành hoa giấy đóng hộp bày trong tủ kính.
Hồi đó, tôi chưa biết Mai-a-cốp-sky. Khi hoà b́nh lập lại, về Hà Nội, đọc Mai-a, tôi thấy hơi thơ và cách diễn tả của Trần Dần có nhiều chỗ giống Mai-a. Tôi trách anh:
"Sao cậu lại bắt chước Mai-a? Bắt chước th́ không thể nào độc đáo được.”
Trần Dần nói:
“Tâm hồn có giống nhau th́ mới ảnh hưởng sâu sắc được chứ! Ḿnh bị ảnh hưởng Mai-a thực, nhưng cái chính là ḿnh chịu ảnh hưởng thực tế cách mạng Việt Nam. Do đó ḿnh sẽ dần trở thành ḿnh.”
Viết xong Người người lớp lớp, Trần Dần được phân công viết thuyết minh cho cuốn phim Chiến thắng Điện Biên Phủ và anh được cử sang Trung Quốc làm nhiệm vụ đó. Nhưng đi kèm bên cạnh anh là một cán bộ chính trị có quyền tối hậu quyết định [4] . Anh cán bộ này, đáng lẽ phạm vi công tác là góp ư kiến vào nội dung bản thuyết minh và bảo đảm cho nó không phạm những sai lầm về đường lối chính sách của Đảng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, th́ đă lợi dụng uy quyền của ḿnh đi quá xa vào phạm vi văn học, bắt Trần Dần phải viết như ư ḿnh, từng câu từng chữ, lạm dụng danh từ chính trị khô khan rỗng tuếch để nhét cho kỳ được vào bản thuyết minh.
Đầu tiên, Trần Dần rất phục tùng người cán bộ chính trị khi dự thảo thuyết minh, và hoàn toàn theo sát những vấn đề chính trị sẽ đặt ra khi thuyết minh. Đến khi thấy anh cán ấy “lên gân” và thọc bàn tay cứng lạnh vào phạm vi viết văn th́ Trần Dần bắt đầu có phản ứng. Nhưng anh vẫn b́nh tĩnh, đề nghị cấp trên xét lại vấn đề. Đến khi “anh cán bộ vẫn là tối hậu quyết định cả từng câu chữ” th́ Trần Dần thôi không làm công việc đó nữa, nhường cả phần “văn chương” cho đồng chí cán bộ.
Sau việc này sự mâu thuẫn giữa văn nghệ sĩ và cán bộ chính trị bắt đầu phát triển khá mạnh trong con người Trần Dần. Anh vẫn cố dẹp đi, nhiều lúc anh thẫn thờ ít cười ít nói nhưng vốn là con người chân thực – cái chân thực nhiều khi đến thô lỗ - lắm khi anh đă cục cằn, thốt ra những lời gay gắt thiếu lịch sự. Anh thường bàn với anh em, khi thấy nhiều thắc mắc quanh việc này: “Ôi già! Cái con số cán bộ chính trị bóp chết nghệ thuật th́ không ít đâu. Làm thế nào để Trung ương Đảng biết rơ t́nh h́nh và đề ra những chính sách cụ thể cho văn nghệ sĩ, đó là nhiệm vụ của mỗi đứa chúng ḿnh. Tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng đến cùng th́ phải có phần góp ư kiến cho Đảng. Đảng cần nhiều khối óc, cần nhiều bàn tay, cần nhiều trái tim, chứ Đảng không cần đến những con người máy, giật thế nào làm thế ấy”.
Đó là động lực thúc đẩy Trần Dần, rồi đến Tử Phác, Đỗ Nhuận, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh, và rất đông anh em công tác văn nghệ trong bộ đội dự thảo ra bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” tŕnh bày với cấp trên hồi đầu năm 1955, tại Hà Nội.
Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ư tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị.
Trong thời gian bản dự thảo c̣n bàn đi bàn lại, th́ bỗng có một người đàn bà đến rất nhanh chóng trong đời sống của Trần Dần. Một chị ngoài 20 tuổi, đi đạo, ở Hà Nội mới giải phóng. Trần Dần gặp người đó và hai người yêu nhau. Lúc mới yêu người ta dễ say. Trần Dần lại là người chưa từng được yêu bao giờ, dù anh đă gần 30 tuổi. Anh mê man với mối t́nh đó buổi đầu và đă đôi ba lần làm trái với nội quy sinh hoạt của bộ đội. Cái tật xấu nhất của Trần Dần là bừa băi trong sinh hoạt: quần áo, sách vở, vứt lung tung, bạ đâu ngủ đấy. Trong sự giao thiệp với người đàn bà này, anh cũng rất bừa băi. Mới quen lần đầu đă nghiễm nhiên vác ba lô đến ở chơi nhà người ta vài ngày, rồi cười đùa ầm ỹ. Anh đă sấn sổ đ̣i t́nh yêu. Người thiếu nữ có lẽ v́ sợ đôi mắt xếch đă đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, và đến lúc nhượng bộ cuối cùng: chị đă trao cả cuộc đời ḿnh cho anh. Nhân lúc đang ốm yếu, được phép nghỉ, anh đă đến nhà người yêu ở hàng nửa tháng liền. Và anh đề nghị cấp trên cho anh được cưới.
Một người con gái mới lớn, đă sống trong không khí tôn giáo, sống trong vùng tạm chiếm lâu năm, lại có được uỷ quyền cho thuê mấy cái nhà, bây giờ bỗng dưng yêu một anh cán bộ quân đội. Vấn đề ǵ đặt ra đây?
Trần Dần vẫn yêu đắm đuối và ngang ngạnh. Anh đề nghị đơn vị đi sát giúp đỡ anh. Lư lịch người thiếu nữ, theo anh, không có ǵ là mờ ám. Một công dân c̣n trẻ, chưa hiểu việc đời nhiều lắm, tŕnh độ chính trị rất thấp, nhưng biết yêu lá cờ vinh quang của Tổ quốc, ngày giải phóng thủ đô, cũng chạy ra đường vẫy quân đội, miệng hoan hô không biết mỏi.
Trần Dần ngày càng không thể dứt ra được t́nh yêu dù anh biết mối t́nh đó sẽ gặp nhiều trắc trở. Quả nhiên, không ai “tán thành” t́nh yêu của anh, trừ một vài người bạn thân. Có người lên giọng đạo đức: Thằng Dần sa ngă rồi. Mới về Hà Nội đă hư hỏng, hoà b́nh chủ nghĩa thật.
Có người nghiêm nét mặt, đề cao cảnh giác: Cẩn thận! Kẻo sa lưới địch! Nó đang âm mưu tấn công vào hàng ngũ ta.
T́nh yêu của Dần với cô gái Hà Nội đă làm cho anh em chung quanh bàn tán sôi nổi. Nhưng không ai chịu khó đi t́m chân lư. Những câu chuyện nói cho vui mồm, những lời dèm pha, chế giễu, những “nhận định” cao siêu, những “lập trường” “quan điểm” giai cấp tính, tư tưởng tính, “tư sản” và “vô sản” v.v… Người ta rút những câu to lớn nhất trong hàng chục pho sách chính trị để quy kết cho một mối t́nh.
Trần Dần đă gục mặt vào tay đau đớn. Tôi đă gặp anh ngồi lặng hàng giờ trong một căn pḥng quần áo bàn ghế bừa băi ở nhà người thiếu nữ đó. Giữa anh và chị, có một niềm tủi cực, cay đắng, xót xa. Chị đă thôi không trang điểm, xếp áo màu vào tủ, có cái th́ đem cắt ngắn, nhuộm nâu. Đă tan đi từ lâu lắm tiếng cười ṛn ră. Trong giọng nói đă thấy ngấn nước mắt. Có vài căn nhà được uỷ quyền cho thuê, chị đă nghe lời anh đem giao lại cho Ủy ban nhà cửa. Đầu tiên, khi nghe người yêu bàn việc đó, chị K. ngạc nhiên mắt đen tṛn mở to:
“Thế rồi sống bằng ǵ hả anh? Sao lại giả nhà cho Chính phủ hở anh? Chính phủ có kết tội những người có nhà cho thuê không hở anh?”
Rất nhiều câu hỏi. Anh đă bàn:
“Không! Chính phủ vẫn bảo đảm cho người có nhà cho thuê. Nhưng chúng ḿnh phải làm lấy mà sống. Không nhờ vào đâu cả, ngoài bốn cánh tay ḿnh, đủ sống th́ thôi.”
Trần Dần hết sức giải thích cho người yêu và hướng người yêu vào cong đường “làm lấy mà sống” “đừng nhờ vả ai”. H́nh ảnh người con gái đi t́m việc làm trong mưa, về sau tôi lại gặp rất đau xót, trong bài thơ “Nhất định thắng” in trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956.
Mối t́nh đó kéo lê những ngày lo sợ, buồn phiền. Trần Dần không ngờ yêu lại khổ đến thế này. Cùng một thời gian đó, bản “Đề nghị Chính sách Văn nghệ” thảo luận chưa xong. Giời sang hè, mùa mưa tầm tă. Trần Dần và người yêu vẫn sống trong một góc nhà tối thiếu ánh sáng. Bữa cơm không vui. Bụi phố Sinh Từ rắc vào nhà như sương, bụi phủ trắng mặt bàn ghế. Ăn vội vàng, Trần Dần lại về đơn vị để rồi lại được nghe những lời phê phán, những tiếng x́ xào. Và người thiếu nữ lại chân đất, áo ngắn, đi t́m việc làm, có hôm từ sáng đến tôi mới về:
Em đi trong mưa… cúi đầu… nghiêng vai
Đến ngày họp bàn về dự thảo chính sách, Trần Dần được anh em cử ra tŕnh bày. Nguyện vọng của bao nhiêu văn nghệ sĩ trong quân đội. Làm thế nào để sáng tác hay, phục vụ được sâu sắc. Anh nói say mê, nhiệt t́nh. Trong cách nói nhiều khi bốc. Mặt anh khi đỏ gay, khi tái lại:
“Giả văn nghệ cho anh em văn nghệ sĩ! Phân rơ ranh giới giữa cán bộ chính trị và văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ phải có sự lănh đạo của Đảng, nhưng không thể biến thành cái máy v.v…”
Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đă bắt đầu tấn công vào các đồng chí!”
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường th́ cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, th́ bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án th́ bắt đầu trở nên hoang mang.
Thêm vào đó, câu chuyện t́nh chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng trở thành một thứ ǵ ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra “lập trường tư tưởng vững chắc” không bị “tư tưởng tư sản tấn công” đều phải ghét người con gái ấy đi. T́nh cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận băo khổng lồ, Trần Dần không c̣n biết bộc bạch cùng ai. Nói ǵ bây giờ cũng khó lọt qua tai những người “vững lập trường ḷng lim dạ sắt”. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy như có những dây trói vô h́nh mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh.
Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào văn nghệ dồn dập tới: Phê b́nh tập thơ Việt Bắc, Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lănh tụ.
Và truyện Người người lớp lớp phát hành hàng vạn cuốn, được hoan nghênh. Và cuộc phê b́nh Vượt Côn Đảo [5] cũng sôi nổi không kém cuộc phê b́nh Việt Bắc. Trần Dần viết một bài phê b́nh Vượt Côn Đảo giọng châm biếm cục cằn, khiến nhiều người phản đối. Trong một không khí hết sức căng thẳng của văn nghệ bấy giờ, lại bị quy kết là thoát ly chính trị, tư sản tấn công, hoà b́nh chủ nghĩa v.v… rất nhiều anh em bị cuốn vào một chỗ mịt mù, chân lư gần như bị ngập bởi các thứ thành kiến, chụp mũ hung hăng.
Con giun bị xéo măi cũng quằn lên. Trần Dần có lúc oang oang ăn to nói lớn, có lúc tranh luận sôi nổi, có lúc nóng nảy văng tục, có lúc lầm ĺ ngồi một xó, khi th́ ngâm thơ giọng buồn thấm thía, khi th́ cao đàm hùng biện, khi th́ lại ṿ đầu bứt tóc, nhiều lúc ứa nước mắt, ôm mặt nằm c̣ queo một ḿnh, có lúc nấc lên, đầu bù tóc rối.
Tấn thảm kịch đă đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian pḥng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột, anh kêu lên:
“Tôi có tội ǵ? Tôi có tội ǵ mà giữ tôi ở lại?” Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đă quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ c̣n da với xương. Một ḿnh ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy c̣m, không cha mẹ, không anh em [6] , không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi:
“Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?”
Tôi giải thích: “Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần ǵ, chúng tôi sẽ giúp chị.”
Chị oà lên khóc:
“Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?”
Tôi lại khuyên nhủ:
“Có chứ! Ai cấm đâu!”
Chị bỗng khóc to hơn:
“Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!”
Rồi chị gào lên:
“Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa th́ cứ bảo tôi biết, việc ǵ phải lấy cớ công tác này công tác nọ.”
Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:
“Anh ấy bận công tác thật đấy mà!”
Chị vẫn một mực:
“Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…”
Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đă bị dao cắt ruột gan.
Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi ṿ vơ trong pḥng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần b́nh tĩnh lại. [7]
Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đă trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn luôn có t́nh yêu sự sống rất mănh liệt nó đă ngăn không cho anh đến chỗ huỷ hoại cuộc đời c̣n rất trẻ của ḿnh. Anh viết bài thơ “Nhất định thắng” (vào khoảng tháng Tư 1955).
Lần đầu tiên tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: Một túm nhăn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: “Thi đua với các cậu làm thơ nhé!”.
Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:
“Đừng buồn cho ḿnh. Ḿnh cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tự kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật. Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan, dù bị kỷ luật. Và ḿnh tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không c̣n nữa. Đảng là một khối sáng suốt. Tương lai chúng ḿnh, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể chưa hiểu ḿnh.”
Anh lại đọc Mai-a, đọc Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm Đất vỡ hoang và Trên sông Đông êm đềm của Sô-lô-cốp.
Cánh cửa có chấn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian pḥng kia không c̣n chật hẹp, tù hăm nữa đối với một con người đầy ḷng tin như Trần Dần.
Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu c̣n giận dỗi
“Thôi anh đi đâu th́ đi, mặc xác tôi.” Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, tiếng cười lại trở về trong căn nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đă bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đă xin được việc làm:
Trời đă thôi mưa… thôi gió
Đă thấy nắng lên trên màu cờ đỏ
Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất [8] . Bài thơ “Nhất định thắng” gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc c̣n mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời.
Đă gần đến Tết ta. Một số anh em đă thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ mùa Xuân để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở.
Và nhận thấy cái kỷ luật “cấm sáng tác” do một vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lư, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa xôi không biết anh có sáng tác ǵ mới không, tôi bèn t́m lại bài thơ "Nhất định thắng" và cho đăng vào cái Giai phẩm mùa Xuân mà tôi là người soạn bài.
Cứ để bông hoa đó nở th́ đă hại ǵ ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, th́ đă bị dập vùi. Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê b́nh thơ Việt Bắc) đă t́m cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam [9] .
Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấn thảm kịch Trần Dần.
Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có dây trói chặt vào chân tay.
Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đă thấy những cơn băo đe doạ, mà lần này chắc ghê hơn lần trước. Chị K. không biết ǵ vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong th́ lại đi công tác.
Không khí văn nghệ như sắp sửa có trận băo. Không biết từ đâu cái tin “Trần Dần phản động” “Trong Giai phẩm có mấy tên phản động” bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay dồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần c̣n đang ăn dở miếng bánh chưng Tết. Chị K. tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đă ṿng quanh:
"Thế là thế nào hả các anh? Phen này lại bị bắt nữa th́ tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện ǵ mà khổ sở thế không biết!"
Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, xốc ba lô lên vai, an ủi vợ:
"Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. Anh đi công tác đây, gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ ǵ cả.”
Nhưng chị K. không thể b́nh tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa khóc oà lên:
“Anh ơi… Anh có về nữa không, anh ơi!”
Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười:
“Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào…”
Trần Dần ngửng mặt bước đi, ruột tôi bỗng thắt lại: Chuyến này mà nó có làm sao th́ chỉ tại ḿnh. Đang tự dưng bày ra cái Giai phẩm. Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được vấn đề ǵ. Có vấn đề xă hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, tôi cũng đưa in, v́ tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao th́ cũng có ít ra vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng.
Từ những ngày Tết mưa lă chă, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để t́m cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.
Y như một xóm đang đêm tối bỗng có tiếng kêu “Cướp! Cướp! Cướp đă đến”. Lập tức mọi người mắt nhắm mắt mở, vớ lấy giáo mác, gậy gộc, chạy xô ra ngơ, gặp một cái bóng đen. Cả làng hầm hè đánh. Roi gậy, giáo mác, gạch củ đậu thi nhau nện xuống cái bóng người. Một trận đ̣n nhử tử. Cái tâm lư đánh cướp này là tâm lư chung của nhưng người muốn bảo vệ nhà cửa, xóm làng của ḿnh. Cái bóng đen gục xuống. Mọi người lại về nhà đi ngủ. Sáng hôm sau, mặt trời mọc, đi ra ngơ, th́ ra cái “bọn cướp” đó chỉ là một anh đang đêm nực nội ṃ đi hóng mây gió.
Những người đă cầm gậy đánh, đều rất có lư:
“Hô lên là cướp th́ ông đừng giă bỏ mẹ đi à?”
Họ là những người yêu làng yêu nước, họ không có lỗi ǵ. Nhưng lỗi ở những ai hô cướp?
Kẻ nào hô ra hai tiếng “phản động” đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần?
Tôi cố suy măi, ḷng như dao chém. Thôi thế là đêm luận tội đă đóng án tử h́nh xuống một bài thơ; xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn t́m những lối sáng tác khác với bè phái bên kia.
Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin ǵ về anh. Tôi đoán biết được lần này th́ anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vă khó suốt ngày suốt đêm v́ quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa.
Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn thấy ḿnh là thằng làm hại bạn: “Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không?”
Lần này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn 3 tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đă nghe thấy máu lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh c̣n chịu được và c̣n có thể b́nh tĩnh. Đến lần này, liệu anh c̣n có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đă nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa th́ một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường… tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả Người người lớp lớp, tương lai mất một nhà thơ.
Khi chị K. ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi ba tháng không về.
Khi chị K. đau quằn quại, cho ra đời đứa đầu tiên của một mối t́nh cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi… không biết bao giờ về.
Đứa bé ra đời, c̣m rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K. nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa.
Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không c̣n hiểu lầm anh là “phụ bạc” mà chị đă biết thực sự. Chị không oán thán nữa, chỉ ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể:
"Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau th́ anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. Liệu nó có mất bố không hở anh? Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh?"
Tôi như bị chích vào vào gan. Bế đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đă khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là ǵ để kỷ niệm những ngày bố cháu và nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen? [10]
Hôm nay
Trời đă thôi mưa thôi gió
Nắng lên đỏ phố đỏ nhà
Đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa…
Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ ḷng tôi tự dưng toả ra: Trần Dần chắc sẽ được về!Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đă về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, v́ tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lư mà Đảng ta nắm rất vững.
Anh đă về. Gặp anh, tôi không nói ǵ được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy gộc. Nói chưa được một câu, anh đă cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi bốn bài thơ anh làm trong lúc bị giam, và khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng.Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nh́n anh, kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong hoàn cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ b́nh tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa ḷng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nh́n thấy ở cổ anh có một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, c̣n đỏ tươi.
Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều ǵ… Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng rụng dưới chân anh như cỏ héo.Trước mắt tôi là một người chí t́nh, tha thiết, đă có những giây phút bốc lên quá nóng nảy cục cằn, đă tự do bừa băi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động v́ tiền đồ rực rỡ của văn nghệ.
Trước mắt tôi là một con người dũng cảm của Đảng, có thủy có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của quân đội…
Trước mắt tôi là Trần Dần.Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị giày xéo.
Trước mắt tôi là ḷng tin vào ánh sáng của Đảng. Ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người.
[1]Thiếu vài chữ, do bản gốc bị thủng không khôi phục được (các chú thích trong bài của Phạm Thị Hoài)
[2]Trần Dần viết xong tiểu thuyết Người người lớp lớp cuối tháng 9.1954, trước khi lên đường đi Trung Quốc.
[3]Bài thơ dài “Tiếng trống tương lai” hoàn thành tại Bắc Kinh tháng 10.1954
[4]Chuyến đi Trung Quốc kéo dài 2 tháng, từ 10.10 đến khoảng 10.12.1954. Trong đoàn công tác của Trần Dần c̣n có nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
[5]Tác phẩm của Phùng Quán
[6]Gia đ́nh bà Bùi Thị Ngọc Khuê, vợ Trần Dần, đă di cư vào Nam năm 1954.
[7]Trần Dần bị giam kiểm thảo theo kỉ luật quân đội từ 13.6 đến 14.9.1955
[8]Đó là chuyến đi tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, từ 02.11.1955 đến tháng 2.1956.
[9]Trần Dần bị giam 3 tháng tại nhà tù Hoả Ḷ, Hà Nội năm 1956. Trong tù, ông đă dùng dao cứa cổ toan tự tử.
[10]Con gái đầu của Trần Dần là Trần Thị Băng Kha.
------------------------
Bns Nhân Văn số 2 ngày 30-9-1956
Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ
Ư kiến của nhà sử học Đào Duy Anh
Câu hỏi:
1. Theo ư ông, lúc này giới trí thức nói chung và giới văn nghệ nói riêng, cần phải làm những ǵ để góp phần thực hiện mở rộng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác?
2. Theo ư ông và trên cơ sở nhu cầu phát triển của ngành ông th́ chúng ta cần phải đem ra thảo luận rộng răi những vấn đề ǵ?
Trả lời:1. Chế độ của chúng ta căn bản là tự do. Phàm những loại tự do dân chủ chúng ta đều có cả. Nhưng trong quá tŕnh xây dựng chế độ, chúng ta đă gặp, chính trong nội bộ chúng ta, những cái hạn chế và ngăn trở tự do. Tên tuổi của những kẻ thù nội bộ của tự do ấy, người ta đều biết cả: tức là những tệ quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái c̣n ngự trị lén lút hay công nhiên ở địa vị điều khiển và lănh đạo của nhiều cơ quan, những bệnh giáo điều chủ nghĩa, công thức chủ nghĩa, sùng bái cá nhân c̣n ngự trị trong công tác lănh đạo văn nghệ và học thuật và c̣n nặng nề chính trong tư tưởng của nhiều người trong giới trí thức chúng ta. Để góp phần thực hiện những thứ tự do mà quư báo đề ra trong câu hỏi, giới trí thức là những người thiết tha nhất đối với các thứ tự do ấy chỉ có một cách là đấu tranh. Đấu tranh trong công tác chuyên môn, đấu tranh trong hoạt động xă hội. Đấu tranh bằng hoạt động phê b́nh, phản phê b́nh, tự phê b́nh. Chúng ta đấu tranh nội bộ để đánh lùi những lực lượng lạc hậu làm vướng bước tiến của chế độ chúng ta, cản trở sự phát triển của văn hoá chúng ta, để cho chế độ chúng ta càng ngày càng tốt, văn hoá chúng ta càng ngày càng cao. Trong cuộc đấu tranh gay go phức tạp nhưng chính nghĩa ấy, chúng ta chắc được Đảng lănh đạo tán thành, chúng ta chắc được quần chúng ủng hộ.
Nhưng chỉ nói đấu tranh chung chung như vậy th́ không thiết thực. Không ai ngăn cấm anh tự do nghiên cứu, sáng tác, nhưng nếu anh không có phương tiện nghiên cứu sáng tác th́ thực tế anh chẳng có quyền đâu. Không ai ngăn cấm anh tự do ngôn luận, nhưng nếu anh không có phương tiện để in sách báo th́ thực tế anh cũng chẳng có quyền đâu. Hơn nữa, nếu anh có được những điều kiện đặc biệt may mắn mà in sách in báo được, nhưng nếu không có phương tiện phát hành th́ anh cũng đừng nên mạnh nói tự do. Trong khi về thực tế phần nhiều những phương tiện xuất bản, phát hành, đến cả các phương tiện nghiên cứu và sáng tác đă tập trung ở các cơ quan chính quyền, th́ vấn đề không phải là đấu tranh để đ̣i tự do ǵ ǵ, mà là đấu tranh để tranh thủ sự giúp đỡ thiết thực của Chính phủ tạo điều kiện cho sự thực hiện những tự do ấy, ví dụ giúp đỡ thiết thực cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng răi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ư xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học. Ở trong chế độ ta, Chính phủ và nhân dân là nhất trí. Những yêu cầu trên là nghĩa vụ của Chính phủ phải thoả măn để phát huy hết khả năng của nhân dân và của giới trí thức nói riêng.
2. Chỗ tôi công tác là trường Đại học tổng hợp. Vậy tôi nói đến những vấn đề cần phải đề ra trong công tác xây dựng trường ấy. Theo nhiệm vụ của Chính phủ đặt cho th́ trường Đại học phải là trung tâm văn hoá tiêu biểu của nước nhà. Nó chính phải đánh dấu tŕnh độ phát triển của văn hoá, tŕnh độ nghiên cứu của khoa học. Muốn gánh được nhiệm vụ ấy, trường Đại học phải là một trung tâm nghiên cứu khoa học cao độ. Sự xây dựng trường Đại học gặp rất nhiều khó khăn lớn, về trường sở, về cán bộ. Những khó khăn ấy nhất định phải khắc phục được nếu nguời ta có quyết tâm khắc phục. Cho nên, theo ư tôi, vấn đề đầu tiên phải đặt ra là làm thế nào cho các cơ quan có liên quan trách nhiệm thấy rằng xây dựng trường Đại học là một vấn đề quốc gia trọng đại, không tích cực góp phần vào xây dựng nó mà có khi c̣n trở ngại nó là có tội với nước, với dân. Vấn đề ư thức, vấn đề tư tưởng ấy mà giải quyết được th́ mới khỏi gặp phải t́nh trạng như đối với cái quỹ tí hon 10 vạn đồng một tháng để xây dựng cái thư viện văn khoa cho trường Đại học, bộ Tài chính lại thỉnh thoảng xén xẻo đi một nửa lấy cớ là mua sách nhiều quá (trong khi để có kẻ tham ô lăng phí mỗi lần hàng mấy trăm triệu), hoặc t́nh trạng như sách Trung Quốc viện trợ cho nước ta rất nhiều, thế mà hơn nửa năm nay, bộ Giáo dục và nhiều người quan trọng can thiệp, bộ Văn hoá vẫn giữ cả chưa chuyển cho trường Đại học quyển nào, đến nỗi các giáo sư rất cần những sách ở đó để chuẩn bị khai giảng sắp tới mà sách vẫn nằm mốc trong kho của Thư viện Trung ương, không tài nào gỡ ra được.
Một vấn đề quan trọng nữa phải đặt ra là đối với một trung tâm nghiên cứu khoa học là trường Đại học th́ sự bố trí cán bộ nói chung và đặc biệt là cán bộ điều khiển và phụ trách, nên nặng về tiêu chuẩn chuyên môn hay nên nặng về tiêu chuẩn chính trị? Do vấn đề đó nẩy ra hai vấn đề phụ:
Dù là một tổ chức nghiên cứu khoa học, tiêu chuẩn chính trị cũng cần phải có, v́ chúng ta không quan niệm có nhà khoa học phi chính trị, có nhà chuyên môn siêu giai cấp. Nhưng nên yêu cầu tiêu chuẩn chính trị như thế nào? Có cần nhất thiết phải là đảng viên hay dự bị đảng viên th́ mới dùng? Có cần phải là người ngoan ngoăn phục tùng, khôn khéo, mềm dẻo, ít đấu tranh, tức là ít làm phiền cho cấp trên th́ mới dùng, mà người có tinh thần đấu tranh th́ nhất thiết gạt đi? Hay là cần đặt tiêu chuẩn rộng răi hơn như thế nào?
Về tiêu chuẩn chuyên môn th́ cấp trên nên bằng cứ vào đâu? Nếu bằng cứ vào thành tích nghiên cứu và công tác chuyên môn do quần chúng - quần chúng trực tiếp là học sinh và giáo sư, quần chúng gián tiếp là công chúng rộng răi và giới khoa học quốc tế - nhận định, hay chỉ bằng vào sự xét đoán riêng, không khỏi có phần hẹp ḥi chủ quan và cảm t́nh cá nhân, của người lănh đạo?
Cuối cùng tôi muốn nêu lên vấn đề học tập nước bạn. Trong công cuộc xây dựng ngành Đại học, chúng ta cần phải học tập, mà cần phải học tập rất nhiều các nước bạn, nhất là Liên Xô và Trung Quốc là những nước làm thầy chúng ta về nhiều mặt. Chúng ta cần phải thành khẩn học tập kinh nghiệm cũng như kiến thức của các chuyên gia nước bạn. Nhưng có nên lấy tinh thần tự ti dân tộc mà phủ nhận khả năng sáng tạo của chuyên gia Việt Nam không? Vấn đề này cũng cần phải thảo luận để nhằm thực hiện sự học tập một cách sáng tạo; không sa vào cái tệ học tập máy móc và giáo điều có thể gây nên tai hại.
Những vấn đề trên đều có nội dung cụ thể của chúng nhưng đây không phải là chỗ thảo luận nên tôi không nêu ra. Đó chỉ là những khiá cạnh cụ thể của một vấn đề lớn là sự nhận định vai tṛ của giới trí thức chuyên môn và sự tín nhiệm họ trong công cuộc xây dựng nền Đại học nói riêng và sự nghiệp kiến thiết văn hoá và kinh tế nói chung.
----------------
Bns Nhân Văn số 3 ngày 15-10-1956
Nỗ lực phát triển tự do dân chủ
Trần Đức Thảo
Trước hết, chúng ta phải nhận định rơ ư nghĩa và nội dung của phong trào tự do dân chủ đương phát triển trong nhân dân. Căn bản nó là phong trào quốc tế, do Đại hội Đảng XX của Đảng Cộng sản Liên Xô phát động, và đương lan tràn rầm rộ trên khắp thế giới. Nó xuất phát từ những thắng lợi lớn lao của chủ nghĩa xă hội ở Liên Xô và trên thế giới, do những thắng lợi ấy mà phương pháp lănh đạo hẹp ḥi, sùng bái cá nhân theo kiểu Stalin đă trở thành một cản trở nghiêm trọng cho sự phát triển của xă hội Liên Xô và của phong trào hoà b́nh thế giới. Đánh đổ cái cản trở ấy là một nhiệm vụ cấp bách để tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, củng cố và mở rộng hệ thống xă hội chủ nghĩa trên thế giới. Nhân dân Việt Nam với sự lănh đạo của Đảng và Chính phủ, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu bè phái, sùng bái cá nhân, chính là thực hiện đường lối cách mạng của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, do Đảng Lao động Việt Nam truyền đạt.
Xét đến t́nh h́nh trong nước phong trào tự do dân chủ cũng có ư nghĩa trọng đại. Sau khi chúng ta đă đánh bại đế quốc và hoàn thành Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, chính bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là những di tích của chế độ cũ trong tổ chức mới. Đấu tranh chống những bệnh ấy là nhiệm vụ của nhân dân và đường lối của Đảng, một trọng tâm công tác để đẩy mạnh công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hoá, nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xă hội. Tất nhiên, trong phong trào có thể có những sai lầm cá nhân, những lời lẽ lệch lạc với sự lănh đạo của Đảng, những khuyết điển ấy nhất điịnh được sửa chữa, nhưng đấy chỉ (...) [1] xét về căn bản và toàn bộ, phong trào hiện tại chống quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là một phong trào cách mạng của toàn dân, do giai cấp và đảng công nhân lănh đạo: nó giải phóng sức sản xuất, chỉnh đốn tổ chức, đẩy mạnh sự tiến triển của xă hội Việt Nam lên chủ nghĩa xă hội, gắn liền nhân dân Việt Nam với hệ thống xă hội chủ nghĩa trên thế giới.
Đă làm một nhiệm vụ cách mạng, sẽ có địch lợi dụng xuyên tạc. Không có ǵ địch đă lợi dụng xuyên tạc bằng Cải cách Ruộng đất. Không có công tác nào đă phạm phải sai lầm đau xót như công tác ấy. Ngay từ đầu chúng ta đă biết rằng chúng ta sẽ có sai lầm, rằng địch sẽ lợi dụng xuyện tạc, nhưng chúng ta vẫn quyết tâm tiến hành, v́ đấy là nhiệm vụ cách mạng. Trong phong trào tự do dân chủ bây giờ không thể nào có sai lầm nghiêm trọng đến thế, v́ nó chỉ tiến hành bằng lời nói, bằng giấy viết, nó không phạm đến cơ thể. Mà nếu địch có thể t́m cách lợi dụng một vài chi tiết, th́ về căn bản nó sẽ bị một gánh đ̣n rất nặng, có thể là quyết định, v́ căn bản tuyên truyền của địch là kêu rằng chúng ta không có dân chủ, mà chính chúng ta lại chứng minh bằng sự việc rằng chúng ta có dân chủ rơ ràng. Không phải v́ một vài vấn đề vụn vặt mà chúng ta lại bỏ cái căn bản, và không v́ thấy cây mà không trông thấy rừng.
Có anh em lo rằng với tự do dân chủ được phát triển, giai cấp tư sản sẽ “ngóc đầu” lên. Chính như thế là đánh lạc vấn đề. Từ ngày hoà b́nh trở lại, chúng ta mở rộng phạm vi kinh doanh tư sản, chúng ta hô hào họ đầu tư; như thế họ cũng đă được thoả măn một phần (...) để làm ǵ khác. Những người có vấn đề phê b́nh là những người lao động trí óc và lao động chân tay, phục vụ nhân dân và trung thành với Đảng, nhưng chưa được điều kiện để phát huy khả năng và phục vụ có kết quả, thậm chí c̣n bị ḱm hăm, chà đạp bởi những phần tử quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân. Cái tự do mà họ muốn phát triển nhất định không phải là cái tự do tư sản của xă hội cũ, tự do của một thiểu số đi bóc lột đa số. Cái tự do mà họ muốn phát triển là tự do của toàn dân phê b́nh lănh đạo, v́ lănh đạo chính là lănh đạo của ḿnh, mà có phê b́nh th́ mới xây dựng được một tổ chức hợp lư, bảo đảm những điều kiện cần thiết để mọi công tác được kết quả tốt, để mỗi công dân được góp phần vào nhiệm vụ chung. Cái tự do ấy là quyền của người công dân, nó được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Đảng và Chính phủ luôn luôn kêu gọi nhân dân xây dựng lănh đạo. Nhưng v́ chúng ta hay rụt rè, thậm chí c̣n sao nhăng, thiếu tin tưởng, nên công tác phê b́nh chưa được thường xuyên đầy đủ. Chúng ta c̣n thiếu tác phong thảo luận rộng răi, đặt mọi vấn đề trước quần chúng. Đấy là một di tích của lề lối làm việc cũ, một biểu hiện của tư tưởng xa quần chúng, xa nhân dân. Chúng ta phải nỗ lực mở rộng dân chủ, phát triển phê b́nh trong nhân dân. Đảng đă chỉ đường vạch lối, nhưng không thể làm thay: Tự do không phải là cái ǵ có thể ban ơn.
Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân.
Đấy phải phân biệt nội dung và h́nh thức tự do. Về phần nội dung th́ chế độ ta căn bản và thực sự là tự do. Chúng ta đă đánh đổ đế quốc và phong kiến ở miền Bắc, mà dù có c̣n phương thức bóc lột tư sản, th́ với chính quyền nhân dân, với sự lănh đạo của giai cấp và đảng công nhân, cái căn bản đă có và bảo đảm cho tương lai. Nhất định chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản, thực hiện tự do hoàn toàn.
Nhưng về h́nh thức th́ c̣n nhiều thiếu sót, mà đấy là vấn đề nghiêm trọng, v́ chính h́nh thức tự do bảo đảm sự đóng góp đầy đủ của mỗi công dân vào nhiệm vụ chung. Có h́nh thức tự do th́ mới thực hiện được quy tắc lănh đạo tập thể, mới giải phóng đầy đủ lực lượng sáng tạo của quần chúng, phát huy sáng kiến ở cơ sở kinh tế và văn hoá. Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đă bóc trần những kết quả tai hại của tác phong lănh đạo vi phạm h́nh thức tự do. Tuy cái tệ sùng bái cá nhân không thể nào làm mất cái nội dung dân chủ thực sự và tính chất ưu việt của xă hội Liên Xô, trong ấy không c̣n chế độ người bóc lột người, nhưng v́ trong một thời gian h́nh thức tự do không được đảm bảo, sự phát triển của xă hội Liên Xô đă bị cản trở nghiêm trọng. Riêng trong công tác văn hoá, một số bộ phận nghiên cứu sáng tác như bộ phận khoa học xă hội, theo báo cáo của đồng chí Mi-cai-an, đă bị hầu như tê liệt. H́nh thức tự do không phải “chỉ là h́nh thức”! Nó ảnh hưởng sâu sắc đến thực tế xă hội, dù không có thay đổi cái nội dung căn bản.Ở nước ta, Cải cách Ruộng đất đă hoàn thành ở miền Bắc, bây giờ là lúc chuyển lên chủ nghĩa xă hội: Không có con đường nào khác, mà không tiến th́ lùi. Điều kiện chủ yếu để tiến là xây dựng nhanh chóng cơ sở vật chất và văn hoá cần thiết cho phương thức sản xuất tập thể. Từ hai năm hoà b́nh đă được lập lại, công cuộc kiến thiết bị cản trở nghiêm trọng, hầu như hết cả các ngành, bởi những phần tử quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân. Phát triển h́nh thức tự do (tự do báo chí, ngôn luận, hội họp, hiệp đoàn v.v...) là một công tác trọng tâm để giải phóng lực lượng sáng tạo của nhân dân, khai thác và làm nổi bật cái nội dung dân chủ phong phú mà chúng ta đă đạt được. Trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà b́nh, đấy cũng là một yếu tố quan trọng để mở rộng mặt trận tổ quốc, tranh thủ sự đồng t́nh của những tầng lớp rộng răi ở miền Nam và trên thế giới.
H́nh thức tự do là tự do cá nhân. Dưói chế độ cũ, căn bản nó là mơ mộng duy tâm, làm khí cụ tinh thần cho giai cấp tư sản đi bóc lột nhân công. Nhưng trong xă hội ta nó đă biến chất và trở thành giá trị chân chính. Cá nhân phục tùng tập thể, nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng và h́nh thức tự do trong phạm vi pháp lư nhân dân là điều kiện để mỗi cá nhân góp phần thực sự xây dựng tập thể. Xét đến t́nh h́nh thế giới mới đây, lư tưởng tự do cá nhân lại là lư tưởng của những ngày tiến tới, lư tưởng của chủ nghĩa cộng sản bây giờ đương bắt đầu trở thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô. Phát triển tự do cá nhân hoàn toàn, đấy sẽ là mục tiêu càng ngày càng cụ thể với thực tiễn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, trong ấy sẽ không c̣n phân biệt giai cấp, nhà nước sẽ tự tiêu, mỗi cá nhân sẽ tự do xây dựng sở trường của ḿnh, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu. Chủ nghĩa xă hội hoàn thành ở Liên Xô đă giải phóng con người trong tập thể sản xuất. Trong xă hội cộng sản mỗi người sẽ được giải phóng với cá tính bản thân.
Bước tiến của xă hội ta chưa đi đến đấy nhưng cách mạng ta là một bộ phận trong phong trào thế giới và tính chất chung của phong trào thế giới là do bộ phận cao nhất của nó quy định. Tư tưởng cách mạng, dù có ở một nước lạc hậu vẫn phải là tư tưởng tiến bộ nhất trên thế giới. Chúng ta đă làm cách mạng tư sản dân chủ với tư tưởng cách mạng xă hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại, nhưng mang nặng những bệnh của giai đoạn Stalin: quan liêu, giáo điều, bè phái, sùng bái cá nhân. Theo đ̣i hỏi của sự phát triển của sức sản xuất và công tŕnh xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô, Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô đă lên án nghiêm khắc cái tệ sùng bái cá nhân, đặt chủ trương đường lối giải phóng tư tưởng bảo đảm pháp lư xă hội chủ nghĩa, triệt để dân chủ hoá tổ chức. Những nghị quyết lịch sử của Đại hội đă ảnh hưởng sâu sắc đến các nước dân chủ nhân dân anh em và phong trào công nhân và nhân dân thế giới. Nước ta không thể nào đứng riêng: chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xă hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đă gột rửa những nết xấu của đời Stalin, với nội dung chân chính xây dựng trên kinh nghiệm kiến thiết chủ nghĩa xă hội trên toàn thế giới, trong ấy dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá nhân.
[1]Những chỗ ba chấm trong ngoặc đơn là những chữ thiếu, do bản gốc bị thủng, không khôi phục được (talawas).
Nguồn: Báo Nhân văn số 3, ra ngày 15-10-1956. Bản điện tử do talawas thực hiện.
-------------
Bns Nhân Văn số 4 ngày 5-11-1956
CON NGỰA GIÀ CỦA CHÚA TRỊNH
PHÙNG CUNG
Truyện ngắn này của Phùng Cung đă đăng trong báo Nhân Văn số 4 tháng 10.1956. V́ truyện "Con ngựa già của chúa Trịnh", Phùng Cung bị đ́nh chỉ công tác, bị đem đấu tố trước Hội Văn Học Nghệ Thuật, bị khai trừ khỏi đảng CSVN và sau đó bị bắt giam suốt 12 năm (1960-1972). Cuộc đời và văn nghiệp của Phùng Cung gắn liền với truyện ngắn này.
Phương Lộ là một làng hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan Lâm chừng bảy dậm. Từ Đan Lâm vào Phương Lộ, trên con đường đất ṃn, ngoằn nghèo men theo dọc bờ suối, phải qua một chiếc cầu bằng đà vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lăo già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lăo ngày trước là mă phu của triều Trần; khi măn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựa. Năm mười bốn tuổi, lăo đă theo cha ra chơ Đan Lâm học nghề. Lớn lên, lăo đả nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.
Lăo Nông có con ngựa trắng, ḿnh kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lăo đặt tên nó là Kim Bông. Lăo thường khoe con ngựa này lăo t́m mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước Hai. Lăo đă từng đi nhiều nơi mà chưa thấy con nào tướng phách toàn mỹ như nó: có sức vượt hàng ngh́n dậm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của ṇi ngựa chiến.
Từ khi con Kim Bông bắt yên, ngày ngày lăo cưởi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng bóng lăo.. Không cuộc đua nào con Kim Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng ngựa hay, mỗi ngày truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh.
Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để b́nh định đất nước, nên liền uỷ một viên quan hầu cận, t́m đến tận nơi hỏi mua.
Lăo Nông tuy luyến tiếc con Kim Bông, nhưng đến cái tài của nó, lăo sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng: "Con ngựa của bần dân thuộc loài quư mă, là vật nhưng nó hiểu tiếng người. Bây lâu nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lành này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật ḷng bần dân cũng tiếc đời cho nó lắm! Nay chúa công lại co vời nó về chốn triều đ́nh để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ v́ đă làm vừa ư con quư mă và cũng bơ công nuôi nấng tập luyện". Lăo Nông miệng nó tay trao cương cho viên quan. Con Kim Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết ḿnh sắp được từ giă cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.
Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quư mă: Kim Bông phi như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chĩ trong nửa ngày đă về đến Thăng Long. Viên quan vào tâu với chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mợ hội đuu đề kén ngựa chiến. Một buổi sáng, trân các ngả đường, nhân dân các vùng lân lận nghe tin, lũ lượt đỏ về xem như nước chảy. Hàng ngh́n ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim Bông ngơ ngày trước quan cảnh mới lạ, ḷng nó rộn ràng, mắt nó đam đam nh́n thẳng phía cuối đua trường: như để dương oai với đồng loại,nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, nỗng né sang một bên, lao đoa tưởng ngă. Bọn ngựa trố mắt nh́n Kim Bông và cũng cất tiếng hí theo.
Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân dân reo ḥ vang dậy, Chỉ trong chớp mắt con Kim Bông đă vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. Ở phía xa người ta nh́n nó chỉ c̣n thấy một bóng trắng lấp lành, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng ḥ reo phía ấy vang lên không ngớt. Hàng loạt ngựa thấy sức ḿnh không sánh kịp con Kim Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nh́n theo cái bóng trắng nhỏ dần... trong bụi nắng loá của kinh thành. Khi dứa hồi trống, con Kim Bông dừng lại, tai nó ù đi v́ tiếng rao ḥ ca ngợi của xung quanh, nó càng nức ḷng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng ngh́n ṿng nữa mới phỉ sức. Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó bàm liền trên mặt như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn ră như mơ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một ḍng nước chảy sối. Nó chạy hết ṿng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát ước không sánh ra ngoài một giọt.
Lúc này nó thấy tất cả trường đua đếu hướng nh́n về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hănh. Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên lư mă" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đ́nh. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mă lành nghề. Và từ đó, nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sinh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đă thắt ṿng quanh nó, nhiều đồng loại đă phơi thây. Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vở ṿng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được chúa Trịnh chọn làm mă lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.
Chúa Trịnh truyền cho quân lính xây một chiếc hộ bán nguyệt, phía Nam vường Thượng Uyển, để làm chỗ tắm cho mă lệnh, và cử hai mươi mă phu ngày ngày trâong nom săn sóc ngựa quư của Chúa.
Lần đầu con "Thiên Lư" đặt chân tới Hoàng cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn là những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới khiến nó sợ hăi. Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đật chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nh́n hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gươm trần bêb hàng lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mă phu giắt nó vào mă đài, nó tưởng mă phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lĩnh.
Con Thiên lư được vào ngự hẳn trong mă đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứêng một chỗ để dăm bảy mă phu mang kéo tỉa từng sơi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước cảnh sống ki c̣n bên ngoài cung cấm: "Ôi chao! C̣n đâu những buổi sáng cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba? Vời cái sức khoẻ bay hàng ngh́n dậm, với cái thế "cao đầu pḥng vĩ" hùng dũng như ta, đă bao phen xông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này th́ ta sống sao được? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường? Hay Chúa đă quên tqa là kẻ có tài?"
Một buổi sáng, nó đang đứng trong Mă đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mă phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phải tả hành lang. Một mă phu khác trải trên lên nó một tấm gấn điều, xung quanh có thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy ḿnh đẹp như phượng hoàng. Hai mă phu nữa mang đến đằng sau nó một vật ǵ vuông vắn giống như một cái nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mă phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quư giá và đẹp đẽ làm sao! Đời nó chưa tùng nh́n thấy. Hàm thiếc bằng bạc; hai cái đầu nạm vàng sáng loé. Nó sung sướng gục deầu xuống nhạp hàm thiếc một cách ngoan ngoăn. Khi mă pu buông tay; lạ lùng lắm, nó thấy vật ǵ to bằng cái lá đa che ngang hai bên mắt, khiên nó có thể nh́n phía trước mà thôi. Rồi một mă phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. Ua lạ quá chừng, những cái mà đẹp thế này? Ta sẽ làm ǵ đây? Nó rùng ḿnh, thấy hănh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được lên th́ giây cương đă gh́m thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bồng bềnh nhẹ đi một chút nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn vó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đi. Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là đang kéo xe cho Chúa.
Nó gục đầu xuống, lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, mỏi mệt, chán ngán. Nhưng chằng bao lâu, những chậu thóc trộn mặt vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa ḍn sậm sựt đă cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài tả lại cho quá khứ. Con Thiên lư dần dần quen với chức vụ. Nó thấy ḿnh phải pḥ Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lư mă.
Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và các loại ống quần, tà áo, văn có, vơ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị to tát ghê gớm! Chốn thâm nghiêm cung cầm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc sự của triều đ́nh nào vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung hô Van tuế. Đời nó quả là đă sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai phong chiếm giải đầu trên các trường đua.
Một buổi chiều, trên cồng thành đă nổi trống thu không, mặt trời đă khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đă gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng bà Phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng xuống nước. Chà! Mắt nh́n mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư? Ḱa hai lá đa chê mặt ta có khác ǵ hai cánh mũ của vị đại thần? Hai càng gỗ khác ǵ tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự! Phải chăng trời đă an bài cho số phận ta! Nó càng nh́n càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to măi, uy nghi trong sắc ước lẫn sắc trời.
Nó đang say sưa ngắm bỗng giây cương lại giật mạnh. Mép nó căng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới vường thượng uyển có lệnh dừng lại. Tức th́ hai bên tay ngai d́m mạnh cổ nó xuống rồi lại bồng lên nhẹ bỗng. Nó vừa ngóc đầu lên th́ một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi, hớn mặt lên th́ gấu xiêm mài thiên thanh của bà Phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nh́n theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và bà Phi. Gị lồng vào vạt áo Chúa và bà Phi, lảm căng phồng lên và đú đởn múa ngay trước mặt nó. Nó cẩm động, đứng ngẩn ra, hai mặt dương thao láo: "Chà! Thật là ngoạn mục! Ôi! Trời đă ban cho ta đôi nhăn ngọc để riêng ta được nh́n những vưu vật của trần gian, ta đội ơn Trời."
Càng nh́n theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó dậm chân xuống đất cộp cộp, mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một h́nh phạt xứng đáng với tội lỗi của ḿnh. Vừa đập đầu vừa kể tội: "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa, ta đă để cho Chúa và bà Phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mă lệnh đáng tôn kính của Chúa đă ban cho, như thế chẳng phải trước đây ta đă phụ ơn Chúa hay sao? Tội ta thật đáng phanh thây mới phải. Nếu ta chỉ nghĩ cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến cùng đồng loại đua tranh, th́ lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an cư lạc nghiệp! Ơn hưởng lội Chúa, sức ta ngày một cường tráng, th́ cái vược ngàn dậm đối với ta có ǵ đáng kể".
Sống cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hănh với chức mă lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên lư đă trồi lên một lớp lông vàng soè. Trước mă đài, ṇ đă nh́n thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đ̣i ṇ đă chuyển dần về già. Tài nó cũng đă ṃn mỏi. Nó vẫn tưởng nó c̣n sức chạy dư ngàn dậm.
Có một buổi sáng. nó được kéo xe để Chúa và bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nh́n thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi: "Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!" Đi được một quăng nó nh́n lên phía trên, lại đứng lại tự hỏi: "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rơ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ quả đồi lại nhỏ bằng con đường ta đi là nghĩa làm sao?" Tất cả những cảnh vật trước mắt ṇ đếu nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nh́n cánh động, cánh đồng cũng chỉ là một đường thẳng. Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến màu trời xanh cũng chỉ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nh́n được một chiều.
... Xe đi măi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đổng loại. Tự dưng nó hớn hở: "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khầu đầu chúc tụng". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới th́ đồng loại nó cũng nhảy bổ cả đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu, như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng: "Bọn nhăi kia, tội các chú đắng chắt đầu làm lệnh! Các chú không ta là ai êu? Đă quên tài của anh rồi sao?" Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và lại í í trong cổ: "Chúng tôi biết bác lắm,biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nh́n qua đă thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ! Đừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra th́ thóc kia trộn mật ai ăn?"
Con Thiên lư uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lạơi dật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đi. Vừa đi vừa nghĩ: "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bây chỉ nh́n có một chiều. Bây không biết được ta làm đây dễ mấy kẻ làm được! Sức bây được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bây chạy được vài dậm đă phồ mao sều dăi! Rồi đây ta sẽ cho bây biết tài ba!"
Và h́nh ảnh trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên lư mă vẫn tin ḿnh c̣n đủ sức phi lên hàng đầu. Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mă lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tường liền cúi đầu tâu lại:
"Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đ́nh thiếu ǵ ngựa chiến có dư sức vược hàng ngh́n dậm, và đă từng trên dưới trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con mă chiến có sức khoẻ vào bực nhất. C̣n như con mă lệnh, cứ nên để nó kéo xe; v́ từ khi đem nó váo phủ Chúa, nó ăn th́ nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu Chúa công dùng mă lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm!"
Nghe tâu tŕnh, chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lư, nhưng Chúa vẫn tin ở tài con mă lệnh. Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mă lệnh ra tỉ sức củng các chiến mă khác để t iện bề kén chọn.
Con Thiên lư được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cá lá đa đă được cất đi. Nó bàng hoàng nh́n giời, nh́n đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi nư đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa hé ra th́ cụt lủn như có vật ǵ nút lấy mơm. Các đồng loại của nó nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đă lồng lên, tức th́ các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lư càng cắm đầu chạy. Nó tưởng ḿnh thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại th́ bọn ngựa chiến đă tới sát đằng sau. Chĩ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngă vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng nói rằng:
"Tiếng tăm lửng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng than ôi! Băi cỏ này cũng là băi chiến trường, chết như thế này cũng chế v́ giang sơn, v́ Chúa!"
Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ lấy cái thế "cao đầu phóng vĩ".
Hà Nội 10.1956
Phùng Cung
Cần phải chính quy hơn nữa
Nguyễn Hữu Đang
Trong bản báo cáo của ông Khơ-rút-sốp trước Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô có một đoạn nói vắn tắt, gần như lướt qua, mà thực ra rất quan trọng.
Đoạn đó nói về sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng đối với vấn đề củng cố nền pháp trị xă hội chủ nghĩa và kết luận:
“Những tổ chức của Đảng, của Nhà nước và các công đoàn phải chú ư với một tinh thần cảnh giác đến việc tôn trọng pháp luật Xô-Viết và tố cáo, vạch mặt bất cứ ai phạm vào nền pháp trị Xô-viết và những biểu hiện phi pháp và độc đoán nhỏ.”
Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xă hội với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lư pháp luật cũng như sửa đổi hệ thống và lề lối xét xử của toà án, bây giờ sắp bước vào giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên–Xô c̣n phải đặt vấn đề pháp trị một cách nóng hổi như vậy?
Chính là v́ trong bao lâu Stalin đă lạm dụng quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế chính trị mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp trị. Coi thường pháp luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của nhiều cấp uỷ Đảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân lương thiện và đảng viên tốt - kể cả Trung ương uỷ viên của Đảng – đă bị tù đầy, bắn giết oan trong t́nh trạng đó? Cho nên Đại hội đă phải quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ chế độ pháp trị nó là hiện thân của tinh thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật trong một nhà nước văn minh.
Điều này ở xă hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. V́ ḷng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lư tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đă trở thành ḷng khinh bỉ pháp lư nói chung. V́ trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đă quen giải quyết mọi công viêc to nhỏ trong không khí gia đ́nh, với tinh thần tuỳ tiện. Chúng ta đă quen dùng cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy được mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đă quen dùng cái “lập trường” để thay cho luật lệ cụ thể.
Và kháng chiến đă thành công, độc lập và dân chủ ít ra đă thực hiện trên một nửa đất nước, nên chúng ta cũng dễ chủ quan, tự măn tưởng rằng nền nếp cũ vẫn c̣n có giá trị
Nhầm to. Nếu hiện tượng trên là tất yếu đối với hoàn cảnh chiến tranh du kích th́ trái lại, nó không có một lư do tồn tại nào trong hoàn cảnh hoà b́nh.
Hoà b́nh lập lại đă hai năm, dù cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế nào th́ cũng không thể coi miền Bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy tŕ măi t́nh trạng thiếu một nền pháp trị hẳn hoi.
Trong Cải cách Ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục h́nh dă man), xử tù, xử bắn, tịch thu tài sản, hết sức bừa băi, bậy bạ, cũng như việc bao vây đến làm chết đói những thiếu nhi vô tội trong các gia đ́nh địa chủ (hoặc chính là nông dân mà bị quy sai thành phần), không phải chỉ hoàn toàn do sự lănh đạo kém cỏi mà c̣n do thiếu chế độ pháp trị hẳn hoi. Giá các Đoàn Uỷ lúc nào cũng thấy trên đầu họ con mắt dơi theo của thần công lư, giá lúc nào họ cũng thấy văng vẳng bên tai câu nhắc nhở của toà án: "hễ làm trái pháp luật là bị truy tố đấy" th́ chắc chắn là họ đă thận trọng hơn và nhiều tai vạ đă tránh được cho nhân dân rồi.
"Giết nhầm sẽ bị kiểm thảo", ư nghĩ ấy có thể là nghiêm chỉnh, nhưng nó mới nhẹ nhàng, thoải mái làm sao!
Sẽ có những người nói: "Sở dĩ nên nông nỗi ấy là v́ họ không vững lập trường".
Vững lập trường! Điều đó rất quí nhưng chưa đủ. Không phải cán bộ nào, công dân nào cũng vững lập trường. Và ngày những người thực sự vững lập trường mà không có nền pháp trị tinh vi làm mực thước th́ cũng chỉ mới có bảo đảm nhận thức được một cách chung chung về phương hướng và yêu cầu của công việc chứ không có bảo đảm biết làm cho đúng phương pháp, cách thức để đạt tới yêu cầu đó.
Sẽ có những người lo xa: "Đặt ra lắm luật lệ rất dễ đưa đến những bệnh quan liêu, máy móc, h́nh thức".
Không phải thế. Quan liêu, máy móc, h́nh thức là những bệnh do thiếu lư luận cách mạng, thiếu đạo đức cách mạng, thiếu nhiệt t́nh cách mạng. Chẳng biết ít lệ luật sẽ giúp cho việc tránh các bệnh ấy được đến đâu nhưng nhất định không ai có thể chối căi điều này: ít lệ luật là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán.
Nhiều lệ luật cũng vẫn có kẻ lạm quyền, độc đoán được. Những điều đó chỉ dễ thực hiện trong chế độ cũ, luật lệ đă mang sẵn tính chất thực tế th́ không biết mà dùng, không có đủ thế lực mà dùng. C̣n trong chế độ ta, nhân dân có đủ cả quyền hành, ư thức và lực lượng để dùng luật lệ, bảo vệ luật lệ, th́ họ sẽ không để cho những kẻ kia lạm quyền, độc đoán măi.
Một nền pháp trị đầy đủ sẽ là một bảo đảm vững chắc cho tính chất dân chủ của chế độ ta. Nó sẽ là đường “rày” cho đoàn xe lửa chở dân tộc ta chạy lên chủ nghĩa xă hội thật nhanh mà không trệch.
*
Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lư, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu ŕnh bên cửa sổ khiến người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở rộng phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan trọng nọ đ̣i thông qua những bài báo nói đến ḿnh, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước đă băi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đă làm những việc vu cáo và đe doạ chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân văn, hành hung báo Trăm hoa v.v…
Tưởng đă đến lúc nhân dân phải tích cực bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp ở bất cứ trường hợp nào đă có luật lệ rồi.
Về mặt xúc tiến xây dựng ngay một chế độ pháp trị đầy đủ, tinh vi, chúng tôi đề nghị:
Chúng tôi tin rằng toàn thể các tầng lớp nhân dân đều đồng t́nh với chúng tôi về ba đề nghị trên. V́ nhân dân thiết tha mong được sống trong một xă hội chính quy hơn nữa.
- Thi hành Hiến pháp (hoặc là Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với hoàn cảnh ngày nay, hoặc là Hiến pháp mới sẽ đặt ra). Trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội sẽ biểu quyết những đạo luật thay các sắc lệch và nhiều văn kiện khác.
- Quốc hội họp đều, sáu tháng một kỳ. Không có lư do trong hoàn cảnh hoà b́nh mà công việc của Quốc hội vẫn khoán trắng cho một Ban thường trực gần như không hoạt động ǵ.
- Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ tư pháp.
Để mọi quyền làm ăn, sinh hoạt và tự do dân chủ khỏi bị xâm phạm.
Để được thoải mái góp phần kiến thiết quốc gia.
12-10-56
---------
Bns Nhân Văn số 5 ngày 20-11-1956
Hiến Pháp Việt Nam Năm 1946 Và
Hiến Pháp Trung Hoa Bảo Đảm Tự Do Dân Chủ Thế Nào?
NGUYỄN HỮU ĐANG
Hiến pháp 1946 của ta, sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoăn thi hành v́ t́nh h́nh trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định Genève, t́nh h́nh miền Bắc, mặc dầu c̣n có nhiều khó khăn kinh tế và cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp, cũng phải coi là đă trở lại b́nh thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành hiến pháp 1956 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.
Có người nói: «Ta hăy chờ thống nhất xong đất nước, khi đó sẽ có Quốc hội mới, hiến pháp mới. Miền Nam đă đặt hiến pháp riêng, nếu miền Bắc cũng lại ban bố hiến pháp riêng nữa th́ công cuộc thống nhất đất nước càng khó khăn». Tôi không biết những người nói thế thành thực tới mức nào. Tôi chỉ biết Đảng, Chính phủ và toàn dân miền Bắc đă đồng ư với nhau nhận định là cuộc đấu tranh thống nhất sẽ lâu dài. Nếu trong thời gian lâu dài đó mà miền Bắc không ban bố một hiến pháp tạm thời nghĩa là không có một nền tảng cho cái lâu đài pháp trị xây dựng lên trên th́ mọi việc c̣n xộc xệch. Như thế th́ củng cố làm sao được miền Bắc để tranh thủ miền Nam?
Nhất định phải ban bố hiến pháp.
Toàn bộ một hiến pháp thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc ngày nay phải thế nào, tôi không bàn trong bài này. Ở đây tôi chỉ muốn quả quyết một điều là dù hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn không thể thay đổi so với hiến pháp 1946. V́ đó là một điều kiện «không có không được» của một chính thể dân chủ.
Hiến pháp 1946 ghi:
ĐIỀU THỨ 10: Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận.
- Tự do xuất bản.
- Tự do tổ chức và hội họp.
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra ngoài nước.
ĐIỀU THỨ 11: Tư pháp chưa quyết định th́ không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
Hôm nay tôi nhắc lại vài điều của hiến pháp 1946 hẳn có bạn nghĩ: hiến pháp 1946 là cả một sự nhân nhượng chiến thuật với bọn Quốc dân đảng Việt Nam được quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa giúp đỡ và những tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận lúc ấy chưa ngả theo cách mạng. Mức độ của nó so với ngay hoàn cảnh nước ta năm 1946 cũng chưa đủ, huống nữa là so với hoàn cảnh nước ta ngày nay chính quyền nhân dân đă tiến những bước khổng lồ. Ngày nay lực lượng công nông đă lớn mạnh, lẽ tất nhiên phải chuyên chính hơn chứ không thể lui lại tŕnh độ gần với dân chủ tư sản như năm 1946.Thật không c̣n tư tưởng nào phản dân chủ hơn tư tưởng đó. Và nguy hiểm nhất là nó lại khoác áo «lập trường cách mạng», lớn tiếng «v́ công nông». Nghĩ như thế là không nắm vững cái kim chỉ nam trong mọi vấn đề chính sách và pháp trị là: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Nắm vững phương châm đó, ta thấy rằng những tự do dân chủ là ban bố cho các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc) th́ càng ngày càng phải được tăng cường, mở rộng theo sát bước tiến của cách mạng. Hăy lấy tŕnh độ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa làm mức sẽ tiến tới của chúng ta. Có phải tŕnh độ cách mạng ở Trung Hoa năm 1954 cao hơn tŕnh độ cách mạng ở Việt Nam 1946 th́ quyền tự do dân chủ trong hiến pháp Trung Hoa 1954 thu hẹp hơn trong hiến pháp Việt Nam 1946 không?
Không!
Hiến pháp Trung Hoa 1954 ghi:
ĐIỀU 87: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đều có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, tổ chức tuần hành thị uy. Nhà nước cung cấp những điều kiện vật chất thuận lợi cần thiết và đảm bảo cho công dân hưởng thụ những quyền kể trên.
ĐIỀU 89: Thân thể người công dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm. Bất luận công dân nào, nếu không có quyết định của Pháp viện Nhân dân và phê chuẩn của Viện kiểm soát Nhân dân, th́ không thể bị ai bắt giam được.
ĐIỀU 90: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được pháp luật bảo đảm nhà cửa không bị xâm phạm, thư từ được giữ bí mật. Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền được tự do cư trú và đi lại.
Đọc đoạn trên này ta thấy hiến pháp Trung Hoa 1954 buộc Nhà nước phải cung cấp những điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho công dân hưởng thụ đầy đủ những quyền tự do dân chủ. Như thế là vừa rộng răi hơn vừa thiết thực hơn hiến pháp Việt Nam 1946. Điều đó chứng tỏ chế độ càng tiến bộ, dân chủ càng mở rộng.
Liên hệ những điều bảo đảm tự do dân chủ trong hiến pháp Việt Nam 1946 và hiến pháp Trung Hoa 1954 với thực tế miền Bắc bây giờ chúng ta thấy ǵ? Chúng ta thấy các quyền tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh nghị quyết của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương đảng Lao động đă nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ.
Nhưng tại sao việc đó mới đề ra chứ chưa thực hiện được phần nào mà đă lại có ngay một luồng dư luận chống đối, h́nh như muốn chuyên chính hơn nữa? Sự thay đổi đột ngột ấy làm cho quần chúng hoang mang, lo ngại. Chuyên chính với địch th́ bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước tới nay có phút nào chúng ta buông lỏng đâu mà phải hô hào? C̣n chuyên chính với nhân dân th́ cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và Hung-ga-ri là v́ thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là v́ thiếu chuyên chính?
Nhưng dù biện luận thế nào đi nữa th́ cũng không thể vứt bỏ được cái nguyên tắc mà ông Lưu Thiếu Kỳ đă nêu ra trong bản báo cáo về hiến pháp đọc tại phiên họp đầu khoá thứ nhất của Quốc hội Trung Hoa ngày 15-9-1954: «Chế độ chính trị của chúng ta tập trung đến cao độ nhưng sự tập trung cao độ ấy căn cứ trên một nền dân chủ cao độ". Nói chi dân chủ cao độ, ngay dân chủ trung b́nh ta cũng c̣n phải bồi bổ thêm nhiều, thế mà lại muốn chuyên chính hơn nữa th́ không có lợi.
Nguyễn Hữu Đang
Nhân văn số 5
20/11/1956
Những bài đăng trong các Giai Phẩm:
( * ) - Giai Phẩm Mùa Xuân
( * ) - Giai Phẩm Mùa Thu Tập I
( * ) - Giai Phẩm Mùa Thu Tập II
( * ) - Giai Phẩm Mùa Thu Tập III
( * ) - Giai Phẩm Mùa Đông Tập I