Tôi Học Duy thức
Chánh Hạnh
Người ta thường cho rằng Duy Thức Học rất khó. Mà khó thật ! Nhớ lại khoảng nă
m 1959, tôi có đọc qua một cuốn sách viết về Duy Thức, đọc xong cuốn sách, tôi chỉ nhớ được có mấy câu tóm ư của tác giả : ‘’ Trước khi học Duy Thức, tôi thấy sông là sông, núi là núi. Trong khi học Duy Thức, tôi thấy sông không phải là sông, núi không phải là núi. Sau khi học Duy Thức, tôi thấy sông vẫn là sông, núi vẫn là núi ‘’.Thiền và Duy Thức vẫn là nỗi ám ảnh tôi từ thuở nhỏ, phải hành và học. Từ nă
m 1980, tôi đă hành Thiền và cũng trong năm nầy, một ngày nào đó tôi đă mua được một bộ DUY THỨC hỌc tác giả Hoà Thượng Thích Thiện Hoa, sách b́a cứng mạ chữ vàng, của Thầy Thiện Huệ từ chùa Hội Phước Quảng Nam, lưu lạc vào chợ sách cũ nằm trên đường Nguyễn Thị Nhu Sàig̣n.Bộ sách nầy gồm có : Duy Thức Nhập Môn, Duy Thức Học Tập I, Tập II, Tập III, Luận A Đà Na Thức và Duy Thức Tam Thập Tụng Dị Giải
, tôi chỉ đọc qua Duy Thức Nhập Môn, cảm thấy khó nhớ quá nên ngưng không đọc tiếp. Rời Việt Nam tôi vẫn mang theo v́ nghĩ rằng có một ngày kia tôi sẽ học Duy Thức.Gần đây, có người giới thiệu, tôi đă mua bộ băng
Duy Biểu Học của Thiền sư Nhất Hạnh, do Sinh Thức phát hành, gồm bảy cuốn băng, tôi mua để đó chờ có th́ giờ dành riêng để nghe. Có lần khi trở về Việt Nam, đến khu chợ sách cũ đường Hồng Thập Tự gần trường Pétrus Kư, tôi đă mua được quyển Vấn Đề Nhận Thức Trong Duy Thức Học của Thiền sư Nhất Hạnh, rồi đọc quyển nầy trên phi cơ từ Việt Nam trở lại Mỹ, đọc xong sách, tôi vẫn thấy khó nhớ, khó phân biệt.Lại có đạo hữu Liê
n Hoa Tịnh Huệ ở Virginia gửi cho tôi một số kinh sách, trong ấy có quyển Duy Thức Tâm Yếu Luận của ông ta viết. Một chuyến sang California, vào hiệu sách Pháp Quang đối diện chợ Phước Lộc Thọ, tôi đă mua quyển Duy Thức Học của tác giả Thạc Đức.Vào dịp lễ Thanksgiving năm 1997, tôi quyết tâm dành th́ giờ đ
ể đọc qua một lượt các quyển sách trên, mặc cho trí nhớ có nhớ được cùng không.Quả là trí thông minh của tôi kém, tôi khô
ng nhớ được nhiều sau khi đọc và nghe qua băng nhựa, nói theo Thiền là do Tâm tôi chưa Định nên Trí Huệ chưa sanh, c̣n nói theo Duy Thức, do tôi chưa có mấy chủng tử Duy Thức.Ngày nay tôi hiểu, gọi là Duy Thức v́ chỉ có THỨC nên vạn vật mới h́nh thành, nó tóm gọn trong câu ‘’ Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy Thức ‘’.
đứng về phương diện hiện hữu, biểu hiện của vạn vật, ngày nay người ta c̣n gọi nó dưới cái tên khác là DUY BIỀU.Thức nghĩa là hiểu biết, phân biệt, tức là biệt hiệu của tâm. Về bản thể mà nói th́ vô h́nh tướng, vô phân biệt, gọi là Tâm . C̣n về phương diện tác dụng, từ chỗ vô tướng mà hiện ra có tướng, từ chỗ vô phân biệt mà hiện ra sự phân biệt, đó gọi là Thức. Cho nên Tâm là thể mà Thức là dụng.
Duy Thức Học do Bồ Tát Vô Trước hệ thống hó
a các kinh điển của đức Phật, viết quyển Du Già Sư Địa Luận, luận nầy bàn về Du Già và tư tưởng A Lại Gia Duyên Khởi, là sách căn bản làm nền móng cho Duy Thức Học. Ngài Vô Trước (Asanga) sanh khoảng cuối thế kỷ IV, tại thành Bá Lộ Sa (Purusapura), nước Kiền Đà La (Gandhàla), Bắc Ấn. Em trai kế Ngài là Thế Thân (Vasubandha) và em trai út là Tỷ Lân Tŕ Tử (Virincivaisa), gia đ́nh theo Bà La Môn về sau cả ba anh em đều xuất gia đầu Phật. Thế Thân viết Duy Thức Nhị Thập Tụng, Duy Thức Tam Thập Tụng, đó là những sách căn bản của Pháp Tướng Tông hay Duy Thức Học vậy. Danh từ PHÁP chỉ cho cái ǵ ǵn giữ được bản thể của nó, làm cho người ta trông đến, nhận biết đó là vật ǵ, th́ kêu là một pháp ( nhậm tŕ tự tánh, quỹ sanh vật giải) như danh từ sừng thỏ, lông rùa cũng là Pháp. Pháp Tướng Tông phân chia vạn hữu thành 5 loại, gồm 100 thứ :1. Tâm pháp : Cũng gọi là Tâm vương là chân tướng của tri thức, nó có 8 :
- Nhăn thức : Cái biết của con mắt.
- Nhĩ thức : Cái biết của lỗ tai.
- Tỹ thức : Cái biết của mũi.
- Thiệt thức : Cái biết của lưỡi.
- Thân thức : Cái biết của thân.
- Ư thức : Cái biết của ư.
- Mạt Na thức : Cái biết thường chấp ngă.
- A Lại Gia thức : Tàng trữ tất cả cái biết.
A Lại Gia thức là căn bản c̣n bảy thức kia chỉ là biến tướng của nó mà thôi. Có khi người ta chỉ phân Tâm pháp ra thành 3 là : Tâm (A Lại Da), Ư (Mạt Na, v́ thức nầy có tánh cách suy nghĩ, lo lắng nên có tên là Ư, nó cũng là Ư că
n, để tránh nhầm lẫn với Ư thức, người ta để tên nó theo Phạn âm Mạt na) và Thức (Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ư thức)2. Tâm sở : là sự tác dụng của tri thức, nó có 51 thứ, chia thành 6 loại :
a) Biến Hành .- Có 5 thứ :
Xúc: Tiếp xúc, gặp gỡ.-
b) Biệt cảnh.- Có 5 thứ :
|- Thắng giải : Hiểu biết rơ ràng.- Dục : Mong muốn.
c) Thiện.- Có 11 thứ :
- Tín : Tin
- Tàm : Tự xấu hổ.
- Quí : Thẹn với người.
- Vô tham : Không tham lam.
- Vô sân : Không sân hận.
- Vô si : Không si mê.
- Tinh tấn : Tinh chuyên và tấn tới.
- Khinh an : Nhẹ nhàng, thơ thới.
- Bất phóng dật : Không buông lung, phóng túng.
- Hành xả : Làm rồi không chấp trước.
- Bất hại : Không làm tổn hại.
d)
Căn bản phiền năo.- Có 6 thứ :- Tham : Tham lam.
- Sân : Nổi nóng.
- Si : Ngu si.
- Mạn : Khinh mạn.
- Nghi : Nghi ngờ, do dự.
- Ác kiến : Những thấy biết thuộc về tội ác, nhiễm ô như : Thân kiến (Chấp NGĂ), Biên kiến (Chấp một bên), Tà kiến (Chấp tà, mê tín, dị đoan), Kiến thủ (Cho rằng chỉ chỗ hiểu biết của ḿnh là đúng), Giới cấm thủ (Chấp giữ theo những giới cấm không chơn chánh).
e) Tùy phiền năo.- Có 20 thứ :
- Tiểu tùy : Có 10 thứ :
- Tật : Tật đố, ganh ghét.- Phẫn : Giận.
- Hận : Hờn.
- Phú : Che giấu.
- Năo : Buồn buồn.
- Trung tùy : Có 2 thứ
:
- Vô tàm : Tự ḿnh không biết xấu hổ.
- Vô quí : Không biết thẹn với người.
- Đại tùy : Có
8 thứ :
- Trạo cử : Lao chao.
- Hôn trầm : Mờ tối trầm trọng.
- Bất tín : Không tin.
- Giải đăi : Biếng nhát, trễ nải.
- Phóng dật : Buông lung.
- Thất niệm : Mất chánh niệm.
- Tán loạn : Rối loạn.
- Bất chánh tri : Biết song không chơn chánh.
g) Bất định.- Có 4 thứ :
- Miên : Ngủ.- Hối : Ăn năn.
3. Sắc pháp : Là vật tượng do tri thức nhận ra được nó, có 11 thứ :
a)
Năm căn.- Căn là chỗ nương cho thức phát sanh, căn nào cũng có tinh tế ở bên trong, gọi là Thắng nghĩa căn , c̣n thô phù. ở bên ngoài gọi là Phù trần căn. Có năm căn:- Nhĩ căn : Lỗ tai.- Nhăn căn : Mắt.
b) Sáu Trần.- Trần có nghĩa là nhiễm ô, bụi bặm.
- Sắc Trần : Cảnh do mắt thấy.
- Thanh trần : Tiếng do tai nghe.
- Hương trần : Mùi ngửi.
- Vị trần : Vị nếm.
- Xúc trần : Sự tiếp xúc của thân.
- Pháp trần : Cái bóng dáng của 5 trần c̣n lưu lại trong ư thức.
4. Bất tương ưng hành pháp : Hành có nghĩa là Hành Uẩn, Tương ưng có nghĩa là ḥa hiệp. Vậy đây là những Hành uẩn không ḥa hợp với Tâm. Chúng do sự quan hệ giữa Tâm pháp và Sắc pháp mà thành lập, có 24 thứ :
- Mạng căn : Thân mạng sống lâu hay mau.- Đắc : Được.
5. Vô vi pháp : Có 6 thứ :
- Bất động diệt vô vi : Diệt trừ hết các chao động trong vô vi.- Hư không vô vi : Không ngă, không pháp, không cấu nhiễm, rỗng rang trong vô vi.
- Trạch diệt vô vi : Dùng trí huệ diệt trừ hết các ô nhiễm trong vô vi.
- Phi trạch diệt vô vi : Không lựa chọn, diệt trừ hết các ô nhiễm trong vô vi.
Bốn pháp trên là Hữu vi pháp thuộc về hiện tượng, c̣n vô vi pháp thuộc về bản thể. Căn nguyên thứ nhất của hiện tượng giới chính là A Lại Gia Thức, hết thảy những hiện tượng có trong vũ trụ đều do chủng tử của A Lại Gia Thức biểu hiện ra mà thôi. A Lại Gia Thức có 3 nghĩa. V́ nó chứa các chủng tử nên có tên là Tàng Thức, chủng tử phát sinh ra vạn hữu nên c̣n có tên là Nhứt Thế Chủng
, chính chủng tử mang theo nghiệp để chịu luân hồi nên lại có tên là Dị Thục Thức .Tàng Thức lại bao hàm ba nghĩa:
Năng tàng là chủng tử của A Lại Da tạo ra vật nọ, việc kia, Sở tàng là A Lại Da chứa đựng những h́nh ảnh, những sự việc, A Lại Da lại bị Mạt Na thức luyến ái chấp làm NGĂ, đó là Ngă ái chấp tàng. Dị Thục Thức cũng có ba nghĩa : Dị thời nhi thục, có nghĩa là khác thời mà chín, cũng như trái cây sống và chín thời gian khác nhau. Dị loại nhi thục, có nghĩa khác loại mà chín, cũng như trái cây có thứ sống th́ chua mà chín th́ ngọt. Biến dị nhi thục, có nghĩa là biến đổi mà chín, cũng như trái cây lúc c̣n non da xanh, lúc chín da đỏ.Căn thân
(thân mệnh) và Khí giới (thế giới vật lư) đều do nhân duyên kết hợp và do chủng tử của A Lại Gia Thức phát sinh, cho nên vạn hữu đều là giả có, Pháp nào hết nhân duyên, chúng tự tan ră. Chủng tử thuộc A Lại Gia Thức là hữu vi pháp, có sanh diệt, bởi nhân duyên giả hiệp sở sinh nên không phải là thật tại, quyết không phải là bản thể. Bởi v́ bản thể của vạn hữu là cái lư tánh của Chân như, nó là thực tại, vô vi, bất biến.Như vậy th́ một vật hữu vi, hữu sinh, hữu hoại, nó liên hệ ǵ với bản thể vô vi bất biến ? Vấn đ
ề nầy Duy Thức Học giải đáp rằng, vạn vật có 3 tự tánh :- Biến kế sở chấp : Do vô minh, chúng ta cho rằng vật nọ vật kia có, thật ra th́ do thức tạo ra, chớ nó chẳng thật có.
- Y tha duyên khởi : Một vật giả có là do các duyên hợp thành, gồm có Nhân duyên ấy là nhân duyên của chủng tử. Đẳng vô gián duyên là những cái duyên sanh hóa liên tục, niệm trước diệt lại làm duyên cho niệm sau sanh. Sở duyên duyên là khi tâm khởi, tất nhiên nó dựa vào cảnh giới khách quan, cảnh giới nầy là sở duyên, cảnh giới có trực tiếp và gián tiếp nên có thứ gọi là Thân sở duyên và Sơ sở duyên.
Tăng thượng duyên là những thứ làm cho duyên vượt qua các trở ngại, nên nó có Thuận tăng thượng duyên và Nghịch tăng thượng duyên.- Tánh viên thành thật : Nó gồm có nghĩa viên măn, thành tựu và thật tại, nó chính là bản thể, là Chân như, nó là cái sanh ra Y tha duyên khởi Cho nên Tánh viên thành thật là bản thể của Y tha duyên khởi và tướng của nó là hiện tượng.
Thức biến chuyển nê
n đồng thời sanh ra Năng duyên và Sở duyên, Năng duyên c̣n được gọi là Kiến phần và Sở duyên c̣n được gọi là Tướng phần. Khi ta nghe một âm thanh, cái nghe của ta là Kiến phần, c̣n âm thanh phát ra đó là Tướng phần, nhờ cả cái nghe và âm thanh hợp chung lại làm cho ta nhận biết âm thanh kia, đó gọi là Tự chứng phần, lại c̣n cái mà ta nhận biết được phần mà ta nghe biết âm thanh kia gọi là Chứng tự chứng phần, Chứng tự chứng phần phải có sẳn ở trong tâm ta, ta mới có thể biết được vạn hữu, cho nên có những thứ ta không có chứng tự chứng phần th́ ta không thể biết chúng. KiếnPhần, Tướng phần là hai phần ở bên ngoài, c̣n Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần là hai phần ở bên trong, cả bốn phần nầy có tên là Tứ phần thành tâm.
Kiến phần sai khác nhau, có 3 thứ :
- Hiện lượng : Nh́n thấy một vật, nghe một âm thanh mà tâm ta không phân biệt vật ấy như thế nào, âm thanh ấy ra sao. Đó là hiện lượng.
- Tỷ lượng : Nh́n một vật ta cho rằng nó h́nh thật tṛn, màu đ
ỏ chói . . . đó là ta đă có so sánh, phân biệt nên gọi là tỷ lượng.- Phi lượng : Nh́n thấy một vật mà ta phân biệt một cách sai lầm, so sánh không đúng th́ gọi là phi lượng.
Về Tướng phần tức là hiện tượng nó có 3 cảnh :
- Tánh cảnh : Tướng phần là khách quan của tâm nội, nó là thật thể và thật dụng do chủng tử sanh ra. Có hai loại tánh cảnh:
1) Vô bản chất tánh cảnh : Do Tàng thức biến ra Tướng phần rồi Tàng thức duyên Tướng phần nầy qua Kiến phần, đó là Vô bản chất tánh cảnh.
2) Hữu bản chất tánh cảnh : Chỉ có Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân thức mỗi thức tự duyên Tướng phần của ḿnh, hay những ǵ do ngũ quan của ḿnh biết đ
ược đó là Hữu bản chất tánh cảnh.- Độc ảnh cảnh : Cảnh nầy không có thật thể và thật dụng, cũng không do từ nơi chủng tử sanh ra, nó chỉ là ảnh tượng đ
ơn độc. Có hai loại Độc ảnh cảnh :1)
Hữu bản chất độc ảnh cảnh : Như ư thức duyên năm căn và duyên tâm vương, tâm sở của người khác, dùng cảnh nầy để làm bản chất rồi biến ra ảnh tượng của ḿnh để duyên, như thế gọi là Hữu bản chất độc ảnh cảnh.2)
Vô bản chất độc ảnh cảnh : Như Ư thức duyên lông rùa, sừng thỏ là những thứ không có bản chất, như thế gọi là Vô bản chất độc ảnh cảnh.- Đới chất cảnh :
Như tâm năng duyên khi duyên cảnh sở duyên, tuy rằng có gá nơi cảnh của sở duyên để làm bản chất nhưng không có duyên đặng tự tướng của bản chất. Có hai loại Đới chất cảnh :1)
Chơn đới chất : Như Mạt Na duyên Kiến Phần của A Lại Da chấp Kiến phần nầy là Ngă. Kiến phần của A Lại Da là Chơn đới chất của Mạt Na bởi v́ nó không phải là thật tướng A Lại Da.2)
Tợ đới chất : Như Ư thức duyên những h́nh tướng dài, ngắn, vuông, tṛn màu sắc xanh, đỏ ... để rồi tạo ra Tướng phần vuông, tṛn, xanh, đỏ khác. Tướng phần nầy chỉ do Ư thức sanh ra mà thôi nên gọi là Tợ đới chất.Năm thức đầu là
Nhăn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân thức gọi là Tiền ngũ thức. Riêng Ư thức th́ lại có 2 loại : Độc đầu ư thức và Ngũ câu ư thức.- Độc đầu ư thức : Là ư thức đ
ộc lập khi tác dụng suy nghĩ, tưởng niệm không cần phối hợp với Tiền ngũ thức, nó được phân thành 5 loại :ư thức tán vị.a) Ư thức tán vị : Trong khi thức, ư thức của ta hoạt động không ngừng, đây là
- Ngũ câu ư thức : Là Ư thức phối hợp với một hay nhiều thức của Tiền ngũ thức ( nhăn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân ).
Như trên đă nói, tất cả các pháp đều do chủng tử sanh ra, c̣n chủng tử là vô thỉ pháp, chứa trong A Lại Da Thức, khi đủ nhân duyên nó sẽ hiện hành các pháp khác, Chủng tử có hai thứ : Thứ có từ trước, gọi là Bản hữu chủng tử (hay là Bản tánh trụ chủng), thứ mới có, gọi là Thỉ khởi chủng tử (hay Tập sở thành chủng), do sự huân tập để sanh chủng tử mới , gọi là huân sanh, thí dụ một người từ
nhiều đời nhiều kiếp chưa nghe Phật Pháp, nay lần đầu tiên được nghe, sẽ gieo được chủng tử Phật Pháp trong A Lại Da, đó gọi là huân sanh. Ví như một người cứ niệm danh hiệu một vị Phật, như vậy người đó huân tập h́nh ảnh vị Phật ấy, A Lại Da của người đó tạo ra ảnh tượng đức Phật, làm cho ảnh tượng ấy ngày càng rơ ràng hơn, đó chính là huân trưởng chủng tử Phật. Chủng tử có 3 tánh: Lành, dữ và không lành dữ. Thứ hoàn toàn lành, không bị tạp nhiễm, gọi là Vô lậu chủng tử thứ lành hoặc dữ có tạp nhiễm th́ gọi là Hữu lậu chủng tử.Nói rằng vạn hữu do Thức biến hiện ra, đại để có hai thứ :
Cộng biến là thức của nhiều chúng sanh chung lại biến ra và Bất cộng biến là thức chỉ do một chúng sanh biến ra, nói rộng ra th́ có 4 loại :ả địa cầu nầy, do thức của tất cả chúng sanh cùng chung biến ra.1) Cộng trung cộng biến : Như qu
Chủng tử ở trong A Lại Da Thức giả hợp với nhân duyên phát sanh ra vạn hữu gọi là hiện hành, A Lại Da có tánh
Năng tŕ ( khả năng duy tŕ) và Năng biến ( khả năng chuyển biến), cho nên khi hiện hành ra một pháp nào đó, pháp ấy lại sinh ra chủng tử, rồi chủng tử nầy lại hiện hành ra các pháp khác, cứ thế liên tục. Như vậy chủng tử sanh hiện hành, hiện hành sanh chủng tử biến chuyển từng giây phút không ngừng nghỉ.Chủng tử giả hợp với nhân duyên sanh ra một pháp, không phải chủng tử rời khỏi A Lại Da, chủng tử vẫn ở tại A Lại Da để làm Tự chứng phần, do đ
ó Chứng tự chứng phần mới biết được các pháp.Học Duy thức dĩ nhiên là khó, không phải chỉ có 100 thứ của 5 loại đó mà thôi, nó c̣n biết bao nhiêu là những danh từ mới lạ vừa Hán vưà Phạn, để cho dễ nhớ, từ ngàn nă
m xưa người ta đă cô động trong văn vần nào là Nhị thập tụng, Tam Thập tụng, Bát thức quy cũ tụng, nay lại có Ngũ thập tụng. Có thể khó là v́ chúng ta chưa có huân tập Duy Thức, nay hăy huân sanh rồi huân trưởng, nhờ đó nó sẽ giúp cho ta càng tinh tấn trên đường tu học, dù người đó tu Thiền hay Tịnh hoặc Mật hay Giáo, Duy thức học đều hữu ích.Trong Thành Duy Thức Luận Huyền Trang viết :
‘’ Mục đích của Duy Thức Luận là giúp chúng sanh đạt được quả chuyển y ‘’, quả chuyển y là giải thoát các thức khỏi biến kế sở chấp, chuyển các chủng tử bất tịnh thành tịnh, từ đó Tiền ngũ thức sẽ chuyển Thành Sở tác trí, là cái trí tạo tác thành tựu các sự nghiệp độ sinh. Ư thức chuyển thành Diệu quan sát trí, diệu dụng của cái trí nầy là quán chiếu được tánh không của Ngă và Pháp, ngăn chận các phiền năo ngă si, ngă kiến, ngă mạn và ngă ái. Nhờ Ư thức ngăn chận bốn thứ phiền năo đó, không cho chúng đồng sự với Mạt Na, Mạt Na không c̣n chấp kiến phần của A Lại Da làm Ngă, nó tách rời khỏi A Lại Da chuyển thành B́nh đẳng tánh trí, nó không c̣n phân biệt cái ta và không phải ta trong vạn pháp và A Lại Da khi đó chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, A Lại Da như một vườn cảnh bao la với sum la vạn tượng trong đó, chứa đựng vạn hữu cũng là thấu hiểu chân lư vậy.Tóm lại, vạn hữu do Thức biểu hiện, chúng không phải là thật tại, vĩnh cửu, học Duy thức để chúng ta phá Ngă chấp và Pháp chấp, tu tập để chuyển các chủng tử lành, dữ dẫn nghiệp vào luân hồi, để huân trưởng chủng tử không lành dữ. Nhờ đ
ó chúng ta được liễu sanh, thoát tử.Học Duy Thức th́ tôi mới chỉ hiểu được như vậy, muốn thông suốt Duy Thức, chắc chắn là phải học hỏi, suy gẫm nhiều hơn.
Sách tham khảo :
-
Phan Văn Hùm Phật Giáo Triết Học
Tân Việt tái bản lần thứ nh́, Việt Nam, 1958
- Thích Thanh Kiểm Lịch
sử Phật Giáo Ấn Độ Vạn Hạnh xuất
bản, Sàig̣n, 1963
- Thích Thiện Hoa Duy Thức Học (Trọn bộ) Hương
Đạo xuất bản, Sàig̣n, 1962, 1971.
- Thích Nhất Hạnh
Vấn đề nhận thức trong duy thức học
Lá Bối, Sàig̣n, 1969
- Thạc Đức Duy thức
học thông luận Đại Nam tái bản, California, USA,
Ngày 22-3-1998
( * ) Trở về Mục Lục