Giai Phẩm Mùa Thu Tập II

Nguồn: Talawas.org

Trương Tửu
Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ
 



“Phê b́nh và tự phê b́nh đúng nguyên tắc và công khai là con đường đúng nhất để củng cố Đảng hơn nữa, để nhanh chóng khắc phục khuyết điểm…

… Quần chúng càng tham gia đông đảo vào cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm th́ khuyết điểm lại càng bớt đi.

… Mở rộng hơn nữa phê b́nh và tự phê b́nh, dũng cảm phát hiệt khuyết điểm trong tất cả các lĩnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”.

(Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Cộng sản Liên Xô tại Đại hội Đảng lần thứ XX, Khơ-rút-sốp tŕnh bày)
 


Hiện giờ, chính phủ và Đảng lănh đạo đang phát động và tổ chức một phong trào quần chúng rộng răi phê b́nh xây dựng chính sách và cán bộ ở mọi địa hạt chính trị, kinh tế, xă hội, văn hoá v.v… Các đại hội đại biểu nhân dân ở các khu phố Hà Nội, Hải Pḥng, Nam Định, Thanh Hoá; hội nghị tổng kết đợt 5 cải cách ruộng đất, hội nghị mở rộng của Mặt trận Tổ quốc ở các tỉnh; hội nghị học tập văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX ở các cấp bộ Đảng; những cuộc kiểm điểm công tác ở các cơ quan nhà nước, phong trào học tập như Hồ Chủ tịch gửi nông dân ở các thôn xă; các buổi họp phê b́nh ban lănh đạo ở các nhà máy và công trường; các buổi chuẩn bị đại hội văn nghệ toàn quốc; các cuộc thảo luận chính trị ở nhiều trại hè giáo viên v.v… đă cổ vơ và phát huy đến cao độ tự do dân chủ, tự do tư tưởng, trong nhân dân cũng như trong hàng ngũ cán bộ.

Phong trào phê b́nh và tự phê b́nh có tính cách quần chúng ấy chứng tỏ rằng: Chính phủ ta thực sự là của nhân dân, Đảng Lao động thực sự là một đảng cách mạng chân chính, nhân dân dưới chế độ dân chủ cộng hoà thực sự là chủ nhân ông đất nước. Chính phủ và Đảng không sợ sự thực, muốn biết sự thực, cần nắm vững sự thực, yêu cầu nhân dân nói thực. Và nhân dân đă nói thực.

Sự thực ấy là ǵ?

Sự thực là: chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta, trên đường phát triển, hiện đang vướng phải những mâu thuẫn khá gay go đ̣i hỏi một giải quyết hợp lư và cấp bách. Những lực lượng sản xuất dân tộc, được cách mạng giải phóng thoát khỏi ách đế quốc và phong kiến, đang vấp phải, trong bộ máy quan hệ sản xuất mới, những chính sách, những tổ chức, những tác phong lănh đạo, những cán bộ chấp hành cản đường phát triển của nó. Những sai lầm nghiêm trọng trong đợt 5 cải cách ruộng đất cản trở lực lượng sản xuất của nông thôn, những khuyết điểm nhiều mặt của mậu dịch quốc doanh, của chính sách thuế khoá cản trở lực lượng sản xuất của thành thị; những tệ lậu của bộ phận lănh đạo văn hoá cản trở sức phát triển của mọi lực lượng sáng tạo tinh thần (khoa học, nghệ thuật v.v…).

Những lực lượng sản xuất của chế độ dân chủ nhân dân đang yêu cầu chỉnh lư cấp bách những quan hệ sản xuất mới để tự do tiến triển: đó là ư nghĩa cơ bản của phong trào quần chúng phê b́nh rầm rộ đang diễn ra chung quanh chúng ta.

Chính phủ và Đảng phát động phong trào ấy là có ư muốn tạo ra điều kiện tốt để nhận thức đúng nội dung của mâu thuẫn nói trên một cách cụ thể và toàn diện. Có nhận thức đúng mới giải quyết đúng. Chính phủ và Trung ương Đảng đang chăm chú lắng nghe tiếng nói của nhân dân…

Cho nên, lúc này hơn lúc nào hết, nhiệm vụ của mỗi người công dân chúng ta là nói thực, “dũng cảm phát hiện khuyết điểm ở mọi lănh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”, nhiệt liệt tham gia cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm ấy, để giúp các nhà lănh đạo nh́n rơ toàn bộ sự thực. Trong cuộc đấu tranh này, riêng người trí thức phải can đảm tự gánh lấy một trách nhiệm xứng với cương vị xă hội của ḿnh. Thẳng thắn phê b́nh những sai lầm thiếu sót của lănh đạo, của chính sách, của cán bộ là thiết thực góp sức vào sự nghiệp hoàn thành Cách mạng tháng Tám, giữ vững hoà b́nh, củng cố miền Bắc, thực hiện thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ thực sự. Lúc này hơn lúc nào hết, nói thực, nói thẳng, nói hết là cái thước đo ḷng trung thành của người trí thức đối với chế độ dân chủ nhân dân. Không mạnh bạo phát hiện khuyết điểm và đề nghị sửa chữa là không tin chế độ, không tin Đảng, là tự ḿnh tước bỏ cái nhân cách trí thức của ḿnh, là phụ cái ḷng kỳ vọng của nhân dân và chính phủ vẫn đặt vào giới ḿnh.

Nghĩ như vậy nên tôi viết bài này, nối gót nhà văn lăo thành dũng cảm Phan Khôi, góp ư kiến phê b́nh lănh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ.

Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lănh đạo văn nghệ nước ta và đă tác hại khác nhiều đến toàn bộ sinh hoạt văn nghệ. Tôi nói đó là một bệnh phổ biến trong hàng ngũ lănh đạo văn nghệ. Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; v́ rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này th́ không có cái kia được.

Bởi vậy, không phải đợi đến sau Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, văn nghệ sĩ Việt Nam mới chống sùng bái cá nhân. Ai cũng c̣n nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ cố Tô Ngọc Vân đă tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê b́nh nghệ thuật. Ng̣i bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không v́ uy quyền của lănh tụ này hay lănh tụ khác mà thủ tiêu ư kiến riêng của ḿnh. Cũng năm 1948, nhân đi công tác qua Thanh Hoá, ông Trường Chinh có đến câu lạc bộ của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV nói chuyện với anh chị em văn nghệ về chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam. Trong bài nói, có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát hoạ phái lập thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho hoạ phái ấy, cũng như các phái nghệ thuật Đa đa, Dă thú v.v…, chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20. Sau buổi nói chuyện, anh em hoạ sĩ mạn đàm với nhau và nhất trí cho rằng ông Trường Chinh v́ không am hiểu chuyên môn hội hoạ nên đă nhận định sai lầm về chủ nghĩa lập thể. Hoạ sĩ Sỹ Ngọc có viết một bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng tạo số 4 (cơ quan ngôn luận của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV) để gián tiếp bác ư kiến của ông Trường Chinh.

Ở đây, không nói đến chỗ sai hay đúng của các ư kiến Tô Ngọc Vân, Sỹ Ngọc; chỉ một việc tự do và mạnh bạo phát biểu quan điểm riêng của ḿnh trái hẳn với quan điểm của một nhà lănh tụ cũng đủ cho ta thấy rơ các bạn đó không có thói quen sùng bái cá nhân, hễ lănh tụ đă đề ra một ư kiến ǵ là phải nhắm mắt tuân theo, ca tụng.

Đối với các nhà lănh đạo bậc dưới, ở các khu hoặc tỉnh, anh em văn nghệ sĩ cũng thường xuyên giữ thái độ tự do tư tưởng như vậy. Tôi c̣n nhớ, trong Khu IV, nhiều lần văn nghệ sĩ đă xung đột kịch liệt với thiếu tướng Nguyễn Sơn lúc đó (1948-1949) làm Khu trưởng Liên Khu IV. Nhà quân sự này có tham vọng lănh đạo cả văn nghệ trong phạm vi đất đai thuộc quyền ḿnh. V́ thiếu học thức chuyên môn về nghệ thuật, Nguyễn Sơn đă phải dùng đến uy quyền Khu trưởng để đàn áp tư tưởng của văn nghệ sĩ, bắt anh em phải theo ư kiến chủ quan của ông, gây ra hết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác giữa ông và văn nghệ sĩ suốt mấy năm trời, làm hại khá nhiều đến phong trào văn nghệ kháng chiến Liên Khu IV. Một lần, đoàn kịch Tiền tuyến, do một số kịch sĩ, hoạ sĩ và diễn viên phụ trách và công tác trong quân đội Liên Khu IV, diễn vở Dứt áo của Chu Ngọc. Kịch vừa hạ màn, quần chúng c̣n đang vỗ tay hoan nghênh th́ ông Khu trưởng Nguyễn Sơn nhẩy ngay lên sân khấu, đả kích vở kịch, đả kích tác giả, đả kích đoàn kịch, đả kích cả khán giả trong hơn nửa tiếng đồng hồ. Theo lệnh của ông, vở kịch ấy không được phép tái diễn nữa. Vở kịch Dứt áo, lập trường đúng hay sai ở đây không bàn đến; chỉ biết rằng lối lănh đạo “quân phiệt” ấy đă bị anh xem văn nghệ sĩ phản ứng lại mạnh mẽ: đoàn kịch Tiền tuyến tự giải tán.

Khoảng cuối năm 1948, trong trụ sở Xưởng hoạ Liên Khu IV ở Thanh Hoá, có một buổi sinh hoạt toạ đàm về lư luận văn nghệ. Hôm ấy, anh em thảo luận về vấn đề hiện thực xă hội chủ nghĩa. Ông Đặng Thai Mai, Bí thư thứ nhất Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV, Hội trưởng Hội Văn hoá Việt Nam, đưa ra ư kiến cho rằng ở xứ ta chưa thể áp dụng hiện thực xă hội chủ nghĩa trong sáng tác văn nghệ được. Theo ư ông th́ xứ ta chưa kiến thiết xă hội chủ nghĩa nên chưa có cơ sở để vận dụng hiện thực xă hội chủ nghĩa. Rồi ông dẫn những lời nói của Maxime Gorki để chủ tŕ rằng văn nghệ Việt Nam chỉ nên sáng tác theo phương pháp lăng mạn cách mạng. Mặc dầu lúc đó có ông Mai ở cương vị một người lănh đạo văn nghệ toàn Liên Khu IV, quan điểm của ông cũng không nhờ được uy thế đó mà khiến anh em văn nghệ sĩ phải rắp rắp tuân theo. Các bạn dự buổi toạ đàm, sau một hồi thảo luận, đều không tán thành ư kiến ông Bí thư thứ nhất của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV.

Năm 1949, trên Liên khu Việt Bắc, Hội Văn nghệ có tổ chức một hội nghị tranh luận về thơ, tiểu thuyết, kịch, hoạ, nhạc, nhiếp ảnh. Trong những buổi thảo luận, anh chị em văn nghệ sĩ đều hoàn toàn tự do đề xuất và bênh vực ư kiến riêng của ḿnh. Ông Tố Hữu cũng tham gia nhiều cuộc tranh luận. Nhưng không có một văn sĩ nào lại nghĩ rằng ông Tố Hữu đă đưa ra một quan điểm th́ không ai được bàn căi nữa. Tôi thiết tưởng nếu trong hội nghị có kẻ nào xu nịnh nhà lănh đạo định đàn áp tự do dân chủ khi thảo luận th́ chắc là kẻ ấy sẽ bị anh em công kích và khinh bỉ.

Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi t́m chân lư, đi t́m chính nghĩa, đi t́m tự do chứ không đi t́m cuộc đời nô lệ dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác. Lấy sáng tạo nghệ thuật để phục vụ cách mạng làm lẽ sống chủ yếu, họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào.

Với những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lănh đạo độc tài, bè phái th́ tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là t́nh trạng văn nghệ của ta từ sau 1949.

Một mặt, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mỗi ngày một tôi luyện tâm hồn văn nghệ sĩ thêm cứng cáp, rèn rũa lập trường tư tưởng họ một ngày một thêm chính xác; đồng thời cuộc kháng chiến đă làm nở dần ra trong bản thân họ những xúc cảm mới, phong phú, mạnh mẽ và một ư chí phục vụ cách mạng mỗi ngày một thêm sắt đá. Họ muốn đem tất cả tài năng, tất cả cuộc đời hiến cho nhân dân. Họ muốn tiến hành những thí nghiệm sáng tạo nghệ thuật táo bạo phù hợp với yêu cầu của tâm tư súc tích những căm thù và yêu nước. Như đoàn chim đă có lông cánh, họ muốn bay vút lên tầng mây xanh thắm của lư tưởng xă hội chủ nghĩa, mỗi người theo một hành tŕnh độc đáo. Như trăm hoa đầy nhựa sống, họ muốn nở tung ra, mỗi người một hương sắc riêng, giữa thanh thiên bạch nhật của cuộc đời dân chủ tự do. Họ muốn tạo ra một nghệ thuật xứng với một chế độ mà họ yêu quư như yêu quư vận mệnh bản thân. Họ đ̣i những điều kiện thuận lợi tối thiểu để phục vụ…

Một mặt khác, bộ phận lănh đạo văn nghệ - cụ thể là Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam và các ban thường vụ chi hội ở các khu – càng ngày càng tiến sâu vào con đường mệnh lệnh, độc tài, quan liêu, bè phái, hẹp ḥi…, càng ngày càng trắng trợn căng lưới trên khắp các nẻo đường sáng tác văn nghệ, định biến những văn nghệ sĩ nhiều chất sống và cá tính thành những con cừu ngoan ngoăn, sợ sệt chịu để cho bọn chăn dắt lùa đi ngả nào cũng được. Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lănh đạo văn nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những ḥn đất thó “tṛn méo mặc dầu tay kẻ nặn”. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đă khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất măn cá nhân, óc địa vị, v.v… c̣n ǵ nữa?

Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đă linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (số ít thôi) ngă vào tay bọn thầy bùa biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất ức. Một số khác nữa “cất kín” cá tính và nghệ thuật xuống “đáy ba lô”, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – “đánh giặc đă!”. C̣n một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lănh đạo của thường vụ Hội th́ bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt sang một bên…

… Cho đến hôm nay: sự phải xẩy ra đă xẩy ra. Nhân đă đẻ ra quả. Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lănh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà b́nh trở lại, đă bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Pḥng Văn nghệ Quân đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v… đề đạt nguyện vọng lên ban lănh đạo yêu cầu một chế độ công tác hợp với tính chất đặc biệt của sự sáng tạo văn nghệ, yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. Các nhà lănh đạo văn nghệ quân đội, chủ quan và độc đoán, cương quyết đàn áp phong trào đấu tranh chính đáng ấy
[1] . Kết quả là cuộc đấu tranh càng ngày càng lan rộng. Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập lư luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đă đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lănh đạo văn nghệ. Học tập văn kiện của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (đặc biệt bản tham luận của Cholokov), học tập văn kiện “Bách khoa tề phóng, bách gia tranh minh” của ông Lục Đỉnh Nhất, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, anh em văn nghệ sĩ càng phấn khởi và mạnh bạo nêu cao khẩu hiệu tự do tư tưởng, trăm hoa đua nở, lấy đó làm mục tiêu đấu tranh chủ yếu. Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đă đọc một bản tham luận lên án đường lối lănh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đă đứng lên sơ bộ tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lănh đạo văn nghệ. Anh em văn nghệ sĩ chưa thoả măn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để tŕnh bày nguyện vọng. Cuộc đấu tranh c̣n tiếp tục… [2] .

Nguyên nhân nào đă xô đẩy các nhà lănh đạo văn nghệ của chúng ta vào con đường, quan liêu, độc đoán, bè phái tai hại ấy? Nguyên nhân chính là bệnh sùng bái cá nhân. Nó phát sinh từ lúc một số người của Đảng nắm lấy độc quyền lănh đạo văn nghệ bằng tổ chức.

Thực ra, Đảng lănh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử, anh chị em văn nghệ sĩ ai cũng thừa nhận với tất cả nhiệt t́nh thành thực của họ đối với Bộ Tham mưu Cách mạng đă lănh đạo toàn dân làm ra tháng Tám 1945, đem quyền độc lập đến cho dân tộc đang quằn quại dưới gót phát xít Nhật, Pháp. Trông cậy vào sự giúp đỡ của Đảng để tự cải tạo, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin để phát triển tài năng, vui vẻ đứng dưới lá cờ Đảng để giết giặc cứu nước: đó là nguyện vọng tha thiết của tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ kháng chiến.

Văn nghệ sĩ tin ở Đảng và mong mỏi được Đảng lănh đạo là bởi họ hiểu rằng Đảng đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng sự lao động trong đó có cả lao động nghệ thuật. Họ biết rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn cờ tiền phong của tự do tư tưởng. Họ biết rằng một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sứ giả trung thành và hăng hái nhất của tự do tư tưởng. Họ biết rằng cái chế độ mà Đảng đang cùng nhân dân xây dựng bằng xương máu là thiên đường của tự do tư tưởng.

Văn nghệ sĩ kháng chiến hào hứng tiến bước theo lá cờ của Đảng tiền phong. Nhưng trên đường đi, họ đă vấp phải một số người của Đảng trong bộ phận lănh đạo phong trào văn nghệ. Số người ấy đă làm họ thất vọng. Nói cho đúng, anh em văn nghệ sĩ cũng không bao giờ phản đối sự trạng: đảng viên nắm quyền lănh đạo. Nếu quả là những đảng viên tốt, ưu tú, giỏi chuyên môn lănh đạo văn nghệ th́ anh em hết sức hoan nghênh. Nhưng sự thật những “đảng viên” ấy thế nào?

Năm 1950, chúng tôi ở Khu IV lên Việt Bắc dự Đại hội Văn nghệ Toàn quốc. Một buổi tối, gặp ông Tố Hữu và ông Lưu Trọng Lư ở trụ sở Hội, nhân nói đến cái trường văn nghệ nhân dân mới lập ở Việt Bắc, một bạn nhà văn Liên khu IV có phát biểu ư kiến cho rằng: Hội Văn nghệ Việt Nam, từ ngày thành lập đến giờ, rất ít chú ư đào luyện cán bộ chuyên môn cho ngành ḿnh, ít chú ư bồi dưỡng trí thức nghiệp vụ cho văn nghệ sĩ. Rồi anh bạn kết luận: “Lúc này mới mở trường văn nghệ nhân dân kể cũng hơi muộn so với nhu cầu của phong trào văn nghệ. Nhưng muộn c̣n hơn không”. Anh vừa nói dứt lời th́ ông Lưu Trọng Lư sừng sộ nói như thét: “Anh bảo muộn là thế nào? Bây giờ mới làm là đúng lúc lắm chứ! Sao lại muộn?” Chúng tôi b́nh tĩnh nh́n Lưu Trọng Lư “đảng viên” không trả lời. Riêng đối với tôi th́ tâm lư và thái độ của ông Lư không làm tôi ngạc nhiên chút nào v́ tôi đă gặp tâm lư và thái độ ấy ở một số đảng viên khác, khá nhiều lần. Đó là tâm lư của những kẻ “bảo hoàng hơn cả nhà vua”.

Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những người của Đảng phụ trách lănh đạo văn nghệ, trong kháng chiến cũng như sau khi hoà b́nh lập lại, đều có thứ tâm lư nói trên. Ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lănh đạo Đảng không bao giờ sai lầm. Đứng trước một người “quần chúng” nào phê b́nh những điểm thiếu sót hoặc sai lệch của Đảng, nếu họ không bịt tai chạy trốn được th́ thế nào họ cũng phải phản ứng lại kiểu Lưu Trọng Lư.

Những đảng viên “bảo hoàng hơn cả nhà vua” ấy cũng thừa biết câu nói bất hủ của Lênin: “Chỉ có hai hạng người không bao giờ phạm sai lầm: hạng người c̣n nằm trong bụng mẹ và hạng người nằm trong quan tài”.

Họ cũng biết rằng xét theo một thời gian lịch sử dài th́ Đảng không sai lầm – điều này đúng – nhưng xét theo từng giai đoạn nhỏ, từng chính sách, từng kế hoạch cụ thể th́ một đôi khi Đảng vẫn mắc sai lầm; - lắm lúc sai lầm nghiêm trọng là đằng khác nữa.

Họ cũng biết rằng một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin không bao giờ yêu cầu hoặc dung túng, ở người đảng viên, sự nhắm mắt phục tùng tuyệt đối cấp trên đến cái mức hủy diệt cả trí suy xét phê phán cá nhân; trái lại lúc nào Đảng cũng đ̣i hỏi ở người đảng viên tính sáng tạo tích cực, tinh thần dũng cảm phê b́nh và xây dựng mọi chính sách của Đảng.

Họ cũng biết rằng chân giá trị của Đảng Mácxít-Lêninít không phải ở chỗ không bao giờ phạm sai lầm - điều này không thể có được - mà chính là ở chỗ khi nào phạm sai lầm th́ can đảm công bố cho quảng đại quần chúng biết là ḿnh sai lầm, phân tích đúng nguyên nhân của sự sai lầm và quyết tâm sửa chữa sai lầm.

Các đảng viên lănh đạo văn nghệ của chúng ta biết tất cả những điều sơ đẳng ấy. Họ đă học tập những văn kiện của Đảng, đọc sách báo Đảng, được theo lớp chỉnh Đảng. Họ lại là những người có điều kiện đọc được tác phẩm của Mác, Lênin, Mao Trạch Đông. Làm ǵ họ không biết những chân lư phổ thông ấy! Nhưng họ vẫn gào to vào tai quần chúng: Đảng không bao giờ sai lầm; lănh tụ này hay lănh tụ khác không bao giờ sai lầm. Và họ hành động, nói năng y như là họ tin thành thực rằng Đảng, lănh tụ, các cấp ủy không bao giờ sai lầm cả.

Tại sao họ lại tự lừa dối như vậy? Không có ǵ lạ cả. Họ làm ra như vậy là v́ làm thế có lợi cho bản thân họ. Đó là những đảng viên cơ hội chủ nghĩa điển h́nh. Họ theo phương châm sống: “khuất nhất nhân thân vạn thặng”. Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên th́ xuyên tạc sự thực có dụng ư, lănh đạo anh em th́ mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy.

Cho nên, khi vị lănh tụ văn nghệ Tố Hữu chỉ thị bỏ những tranh tĩnh vật trong một cuộc triển lăm tranh hội hoạ (1955) th́ họ bỏ hết những tranh tĩnh vật; khi ông Tố Hữu tấm tắc khen bức tượng "Hướng điền" của Song Văn th́ họ xô nhau vào tấm tắc khen theo; khi ông Tố Hữu chê hai bức sơn mài "Trăng lên" và "Niềm vui" của Nguyễn Sáng trong kỳ triển lăm năm ngoái th́ họ ùa vào chê theo mặc dầu họ đă khen Nguyễn Sáng lúc ông Tố Hữu chưa cho ư kiến; khi ông Tố Hữu viết về bản thảo tập Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Đại: “Đây là một tài năng mới cần cổ vơ và biểu dương” th́ họ nhấc tập thơ ấy từ giải khuyến khích lên giải ba
[3] . Khi ban lănh đạo văn nghệ quân đội biên thư cho thường vụ Hội Văn nghệ đề nghị (hay ra chỉ thị?) bỏ cuốn Người người lớp lớp của Trần Dần “phản động”, không chấm giải, th́ họ ném Người người lớp lớp và cả nhà văn Trần Dần vào sọt giấy; khi mở ra cuộc phê b́nh tập thơ Việt Bắc th́ họ chỉ rắp tâm hướng dư luận đến chỗ ca tụng ông Tố Hữu v.v… Suy xét, hành động họ nhất nhất rập theo đúng ư kiến và sở thích của cấp trên. Họ tự tước bỏ hết cá tính, tước bỏ trí phán đoán độc lập, tước bỏ luôn nhân cách văn nghệ sĩ. Và do đó họ cũng đă tự tước bỏ luôn cái tư cách cần phải có của một người cộng sản.

Phàm đă sùng bái cá nhân “cấp trên” th́ tất nhiên có tâm lư và muốn bắt những người “cấp dưới” sùng bái cá nhân ḿnh. Do đó sinh ra lối lănh đạo độc đoán và bè phái. Trong số báo Nhân dân ra ngày 8-9-1956, ông Phượng Cầu có lôi ra ánh sáng vụ Nọc rắn, bằng chứng của thứ lănh đạo văn nghệ độc đoán bè phái.

Vụ Nghệ thuật giao cho Đội kịch Trung ương tập vở Nọc rắn. Khi đi nghiên cứu nông thôn về và bắt đầu diễn tập, các diễn viên đă có ư kiến là vở kịch này nó thế nào ấy diễn không được, nó không đúng thực tế, nó gượng gạo, chắp vá v.v… Nhưng đồng chí Vụ trưởng xoa tay, dơng dạc bảo:

"Căn bản vở kịch này bảo đảm là tốt rồi đấy! Không cần bàn căi nữa!" Người ta c̣n phê lên trán đội kịch ba chữ: Thiếu tin tưởng. Lúc đem diễn thử th́ ai cũng thấy là vở kịch hỏng về căn bản. “Thế là công lao ăn tập hơn một tháng trời và gần ba triệu đồng của kế hoạch nhà nước biến thành mây khói”. Ông Phượng Cầu thuật xong câu chuyện có viết: “Vở kịch như người bị Nọc rắn nằm lăn ra đây.” Không! Bị Nọc rắn không phải là vở kịch. Bị Nọc rắn không phải là ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật. Bị Nọc rắn chính là kế hoạch nhà nước 1956. Ba triệu đồng, mồ hôi nước mắt của nhân dân đóng góp để củng cố miền Bắc, phút chốc bị cái nọc mệnh lệnh bè phái – nguy hại hơn Nọc rắn –của ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật làm cho tiêu tán.

Những con người khinh bỉ quần chúng như thế, phá đoàn kết như thế, hách dịch độc đoán như thế, nịnh trên chèn dưới như thế mà bao lâu nay vẫn lănh đạo văn nghệ, vẫn được cấp trên khen là tốt – lại c̣n tuyên dương nữa! – th́ không cần nói cũng biết cái không khí văn nghệ nghẹt thở đến mức nào!

Thêm vào tư cách lănh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là ta có tất cả cái t́nh trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực sáng tạo văn nghệ v́ thế mà quằn quại không phát triển mạnh được.

Tôi nói không phát triển mạnh được v́ rằng, mặc dầu bị các nhà lănh đạo ḱm hăm, văn nghệ Việt Nam suốt thời kháng chiến và sau khi hoà b́nh lập lại vẫn theo đà phát triển lịch sử của Cách mạng tháng Tám mà phát triển, không sức bảo thủ nào ngăn lại được. Vả lại, đường lối văn nghệ của Đảng, tuy chưa có hệ thống và chưa được thể hiện ra một chính sách cụ thể, cũng vẫn là kim chỉ nam cho sự hoạt động văn nghệ. Những phương châm dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá, những khẩu hiệu thâm nhập quần chúng: khai thác vốn cũ dân tộc, mặc dầu thực hành thiếu sót, lệch lạc hay máy móc, cũng vẫn là hướng tiến của văn nghệ Việt Nam. Với đường lối đúng ấy, nếu lại có một chính sách cụ thể và một tổ chức lănh đạo tốt th́ không biết những khả năng sáng tạo của văn nghệ sĩ c̣n phát triển tưng bừng mạnh mẽ đến thế nào! Tiếc thay! Các nhà lănh đạo văn nghệ đă ḱm hăm sức phát triển ấy bằng một lề lối bè phái, độc đoán quan liêu, sùng bái cá nhân, bằng những thói quen tâm lư c̣n sót lại của thời thực dân phong kiến.

Họ đă làm trái hẳn ư muốn tốt của Đảng. Họ đă làm giảm sút phần nào uy tín của Đảng trong một số quần chúng văn nghệ quen đánh giá Đảng qua tư cách và hành động của những đảng viên. Họ không đủ tiêu chuẩn một cán bộ cách mạng chứ đừng nói đến tiêu chuẩn một đảng viên cộng sản.

Đă đến lúc phải sa thải những “nhà lănh đạo” thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay ḿnh điều khiển công việc chuyên môn của ḿnh một cách thực sự dân chủ.

Đă đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói.

Đă đến lúc Đảng phải nghiên cứu, xây dựng và tuyên bố một chính sách văn nghệ đúng đắn, cụ thể, sát thực tế, để tạo cho văn nghệ dân tộc một cái đà phát triển mạnh mẽ và tự do trên chiều hướng tiến đến xă hội chủ nghĩa, để cho các nhà văn nghệ có đủ điều kiện khách quan làm tṛn sứ mạng của họ là “kỹ sư của tâm hồn”.

Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên xô đă rọi ánh sáng tưng bừng vào các tâm hồn khao khát tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do phê b́nh. Đại hội đă đánh thức dậy ở họ tinh thần dũng cảm chiến đấu v́ chân lư, v́ tương lai cộng sản chủ nghĩa, v́ giá trị chân thực của con người. Những tâm hồn rạo rực ấy đang đ̣i hỏi những điều kiện tốt để hiến dâng phần cao quư nhất của họ cho cách mạng, cho tổ quốc, cho nhân dân. Đừng ai nghĩ thiển cận rằng hiện nay toàn thể anh em văn nghệ sĩ đấu tranh cho tự do tư tưởng, vạch trần những sai lầm nghiêm trọng của Hội, yêu cầu Đảng đề ra một chính sách lănh đạo văn nghệ đúng đắn, chỉ là v́ bất măn cá nhân, v́ óc địa vị, v́ lương ít, v́ muốn phá uy tín Đảng, v́ có người xui dục, v́ chịu ảnh hưởng xấu của giai cấp tư sản, muốn đ̣i tự do bừa băi v.v…

Không! Văn nghệ sĩ (trừ một tối ư thiểu số) đấu tranh không phải v́ những động cơ ấy. Họ đấu tranh v́ họ yêu chế độ, yêu Đảng, yêu nghệ thuật, yêu con người. Họ đấu tranh là để cho chế độ tươi đẹp hơn, Đảng vững mạnh hơn, nghệ thuật phục vụ Cách mạng đắc lực hơn, con người có nhân cách cao quư hơn.

Họ muốn ǵ?

Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lănh đạo văn nghệ đă cản trở sức phát triển nghệ thuật, làm đau khổ con người văn nghệ sĩ, làm ră rời t́nh đoàn kết thân ái trong mặt trận văn nghệ.

Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lănh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; v́ thiếu tự do tư tưởng th́ nghệ thuật sẽ co quắp, ṃn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời.

Họ muốn công việc lănh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ – bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng – được quần chúng văn nghệ tự ư lựa chọn và tín nhiệm; họ đề ra khẩu hiệu: quyền điều khiển chuyên môn trả lại cho người công tác chuyên môn v́ họ đă thấy rơ nếu không nắm được chuyên môn mà cứ chủ quan lănh đạo chuyên môn th́ tất yếu sẽ phạm những sai lầm làm hại đến phong trào văn nghệ.

Đề ra khẩu hiệu ấy, họ không bao giờ có ư nghĩ muốn tách chuyên môn ra khỏi chính trị. Họ vẫn chủ tŕ rằng mọi công tác chuyên môn đều phải phục vụ một đường lối chính trị chung có lợi cho quảng đại nhân dân, nhưng họ muốn trả lại cho người chuyên môn quyền điều khiển công việc thuộc về phạm vi chuyên môn của họ. Có như thế, chuyên môn mới phục vụ chính trị một cách đắc lực được.

Họ muốn Đảng có một chính sách văn nghệ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói”, tạo ra những điều kiện tinh thần và vật chất cần thiết để họ đem hết tài năng phục vụ cho chế độ dân chủ nhân dân tiến vững chắc lên xă hội chủ nghĩa. Họ muốn sáng tạo ra một nền văn nghệ xứng với Cách mạng tháng Tám, xứng với dân tộc anh hùng.

Họ muốn cùng với toàn thể nhân dân, dưới sự lănh đạo đúng đắn của Đảng, nỗ lực củng cố miền Bắc để làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà bằng đường lối hoà b́nh trên cơ sở độc lập thực sự, dân chủ thực sự.

Những ước muốn ấy đă nổi bật lên qua mười tám ngày học tập, thảo luận, liên hệ sôi nổi tháng Tám vừa rồi, qua bản tham luận đọc hôm tổng kết. Đó là những ước muốn chính đáng, xây dựng.

Vấn đề chống sùng bái cá nhân, chống lănh đạo quan liêu độc đoán bè phái, hiện nay, là một vấn đề rộng lớn, quan trọng. Mong rằng tất cả anh chị em nghệ sĩ nói riêng và anh chị em trí thức nói chung đem kinh nghiệm bản thân góp sức vào công cuộc tiễu trừ óc sùng bái cá nhân độc tài mệnh lệnh bất cứ ở lănh vực nào. Đó là một cách xây dựng chế độ của chúng ta hiệu nghiệm nhất.

Để kết luận, tôi xin nhắc lại lời nói của ông Khờ-rút-sốp vang động ở Đại hội thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô: “dũng cảm phát hiện khuyết điểm trong tất cả các lănh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”.

10-9-1956

 

[1]Xem báo Nhân văn số I, bài "Con người Trần Dần" của Hoàng Cầm
[2]Xem báo Nhân văn số I. Bài "Đợt đầu học tập và đấu tranh của giới văn nghệ".
[3]Xem bài: “Một vài sự thật chung quanh vụ giải thưởng văn học 1954-1955”, của Yến Lan, Văn nghệ số 139.

 


Em bé lên sáu tuổi

Hoàng Cầm

Mỗi chính sách của Đảng
Là một tia nắng hồng
Nắng vướng mây xám lạnh
Cỏ hoa c̣n ngóng trông

Ước có nhiều trận gió
Thổi sạch quang ṿm trời
Cho tia nắng nhảy múa
Vui hát thực trên đời.

I.

Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi t́m miếng ăn

Bố: cường hào nợ máu

Đă trả trước nông dân
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam

Từ khi lọt ḷng mẹ
Ăn sữa, ngủ giường êm
Áo hoa lót áo mền
Nào biết ḿnh sung sướng

Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt
Nhưng người với con người
Vẫn sẵn ḷng thương xót

Có cụ già đói khổ
Lập cập đi ṃ cua
Nghĩ đến loài địa chủ
Tim phồng căng oán thù

Cụ đă nuôi đứa bé
Trơn lông và đỏ da
Sáu năm, phường độc ác
Lột trơ xương thân già

Bố mẹ nó không c̣n
Đứa trẻ nay gày c̣m
Bỗng thương t́nh côi cút
Cụ nhường cho miếng cơm

Chân tay như cái que
Bụng ph́nh lại ngẳng cổ
Mắt tṛn đỏ hoe hoe
Mở nh́n đời bỡ ngỡ

“Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm thày ơi”

II.

Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài
Chợt nh́n ra phía ngơ
Nghe tiếng kêu lạc loài

Chị rùng ḿnh nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ

Chạy vùng ra phía ngơ
Dắt em bé vào nhà
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa

Chị bần nông cốt cán
Ứa nước mắt, quay đi:
“Nó là con địa chủ
Bé bỏng đă biết ǵ
Hôm em cho bát cháo
Chịu ba ngày hỏi truy”

Chị đội bỗng lùi lại
Nh́n đứa trẻ mồ côi
Cố t́m vết thù địch
Chỉ thấy một bóng người

Em bé đă ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ
Chị nghĩ: sau lấy chồng
Sinh con hồng bụ sữa

III.

Chị phải đ́nh công tác
V́ câu chuyện trên kia
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo

Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt léo
Do con mắt bé tẻo
Chẳng nh́n xa chân trời
Do bộ óc chây lười
Chỉ một màu sắt rỉ
Đă lâu nằm ngủ kỹ
Trên trang sách im ĺm
Do mấy con-người-máy
Đầy gân, thiếu trái tim

Nào “liên quan phản động”
“Mất cảnh giác lập trường”
Trời nhập nhoạng tối sáng
Chân lư mù như sương

Mấy đêm khóc ṛng ră
Ngọn đèn soi tù mù
Ḷng vặn ḷng câu hỏi:
“Sao thương con kẻ thù?

Giá ghét được đứa bé
Ḷng thảnh thơi bao nhiêu
Nhưng bụng nó lúc đói
Giống bụng ta khi nghèo”

Em bé đến ngoài cửa
Thành quen xin miếng cơm
Nhịn cho em một nửa
Chị đưa qua khe tường

Ngồi viết lên từng chữ
Sáng tinh yêu con người
Ngoài kia sông núi mở
Thao thao đến chân trời

IV.

Có đồng chí cấp trên
Lật từng trang kiểm thảo
Nước mắt mấy giọt liền
Rơi trên tờ báo cáo:

“Đảng ta, trời nhân đạo
C̣n vương vất bóng đêm
Đồng chí đă thắp đèn
Ḍng mực vắt như sữa
Nhức căng hai đầu vú
Nuôi ngày mai lớn lên”

Em bé lên sáu tuổi
Được chăm nuôi lớn dần
Đă tung tăng cắp sách
Cùng trẻ em nông dân

Bướm bay quanh mắt sáng
Cỏ xanh rập rờn chân em
Cỏ đang lấp bùn đen
Của ngh́n năm tội ác

Chị đội thăm trường học
Cờ lên, em đứng chào
Mắt sáng như hôm nào
Được miếng cơm của chị.

 

Một đêm không ngủ
Trần Lê Văn
 

Đă ba hôm nay, Lâm suy nghĩ về một đề tài truyện ngắn. Anh chàng chưa quen với lối làm việc có chương tŕnh, kế hoạch. Cuốn sổ tay xinh xắn b́a màu gụ bóng, có in h́nh Tháp Rùa, đi đâu Lâm cũng mang theo trong người để tự nhắc nhở ḿnh công việc hàng tuần, hàng ngày. Giở mấy trang đầu, quả có sự quyết tâm “đi vào kế hoạch cá nhân”. Cũng có những đề cương, dự án về sáng tác, cũng phân phối thời gian, có vẻ khoa học lắm. Nhưng mấy trang sau đă bắt đầu thấy những h́nh con chim con c̣ vẽ nguệch ngoạc, những câu thơ chữ Hán viết dở dang, những câu thơ trào phúng trao đổi ngầm với một người bạn trong một buổi họp kéo dài… Ba hôm nay, Lâm lại dùng đến quyển sổ tay một cách đều đặn. Anh ghi những ư nghĩ thoáng qua trong óc, phác ra những nhân vật, mường tượng những cảnh huống. Nhưng tối nào cũng vậy, cứ đặt bút viết được ba ḍng là anh lại mặc quần áo đi ra đường. Chị vợ nguưt dài, chẳng biết trách yêu hay trách thật: “Lại đi biệt tăm, biệt tích!” Câu này Lâm nghe đă quen tai quá nên cũng chẳng quan tâm cho lắm. Cứ bước ra khỏi nhà là anh thấy “nhẹ nợ”. Ra khỏi nhà là vợ hết ỷ eo hỏi tiền chợ ngày mai, mấy đứa con hết quấn chân đ̣i mua đồ chơi và mắt anh khỏi trông thấy nồi niêu mắm muối ngổn ngang trên cái bàn viết. Ở nhà với vợ con, mặt anh rầu rĩ như đưa đám nhưng cứ ra đến đường là anh lại nhởn nhơ, gặp bạn th́ nói huyên thuyên đủ các thứ chuyện, có khi đùa cả với con nít ngoài phố. Những lúc này, Lâm cũng cảm thấy ḿnh hơi “vô trách nhiệm” nhưng anh chàng hay đăng trí nên dễ quên. Lên đến Hồ Tây th́ cuộc đời lại thấy đẹp quá, đẹp như một bài thơ t́nh. Trăng non tháng Tám thấp thoáng sau những đám lá lăn tăn của hàng cây phượng bên đường Cổ Ngư. Con đường này mang một màu sắc duyên dáng đặc biệt của thời đại. Bên cạnh những bộ áo ka ki, vẫn có những tà áo màu, nhưng cũng có những cái áo thon ngắn, sau lưng tung tăng hai cái đuôi sam tết nơ con bướm. Gió mát đă hơi lành lạnh, mặt hồ gờn gợn, mênh mông. Hương lá sen thỉnh thoảng bốc lên đậm đà gợi đến một ấm trà ngon. Bên kia hồ Trúc Bạch, một cái nhà có nhiều ống khói “giống như một cái tàu thủy đỗ ở bến không bao giờ chạy”. H́nh ảnh này là của một anh bạn hay ví von, thường rủ Lâm đi ngắm cảnh hồ. Trên những ghế đá ngoảng lưng ra đường, từng cặp người sát vào nhau, tưởng chập làm một. Từng hàng ô tô bóng loáng, có chấm đèn đỏ đằng sau, toả về những con đường nhẵn thín, rộng thênh thang: Hùng Vương, Phan Đ́nh Phùng, Cửa Bắc… Hà Nội ở đây không chen chúc, chật chội, ồn ào nữa. Hà Nội ở đây khoáng đăng, thanh tao, trầm mặc, rất tốt cho sự nghỉ ngơi, suy nghĩ hoặc yêu đương. Không khí nhẹ nhàng dễ thở. Gió thổi tung bay mái tóc, lồng ngực thở căng lên như cánh buồm no gió. Thoát khỏi những căn nhà hẹp ở những phố đông người, lên đây người ta muốn cởi phanh áo, khoa chân múa tay cho sướng đời. Lâm đi tha thẩn chẳng khác ǵ một người vô công rồi nghề, ngắm nghía các ngôi nhà ở dọc những đại lộ. Có những cái nhà vuông vuông tṛn tṛn, giàn hoa, cổng sắt, phảng phất như những lâu đài cổ bên Pháp. Có những cái giống hệt cung điện quốc vương Khơ-me, đằng trước cũng giồng những cây thuộc loại dừa, loại cọ. Có cái làm theo kiểu Á đông cổng lợp ngói men sứ, mái cong cong, ngoài hiên sáng rực những đèn lồng có tua đỏ, cổ kính, uy nghi. Lâm ngước nh́n lên những căn gác, cửa sổ có riềm lụa màu, lọc ánh đèn xanh dịu. Trên ban công nhà ai, đằng sau bức lan can trạm trổ tỉ mỉ như đăng ten, hai vợ chồng đang ngắm trăng hóng gió, ríu rít chuyện tṛ. Lâm có một ư nghĩ ngộ nghĩnh: “Không biết họ có nặng lời với nhau bao giờ không nhỉ!”, rồi mỉm cười một ḿnh.

Lâm về đến nhà đă mười giờ khuya. Vợ con anh đă đi ngủ hết. Trẻ con th́ nó đi ngủ sớm đă đành. Vợ anh cũng có cái thói đi ngủ sớm. Như thường lệ, anh lẩm bẩm một ḿnh: “Người đâu mà cứ lặn mặt trời đă buồn ngủ rồi!”. Anh có ai nghe nói: hay buồn ngủ là triệu chứng thiếu máu. Nhưng anh vẫn thấy bực ḿnh về thói ngủ sớm của vợ.

Lâm vừa lau cái mặt bàn vừa hát nghêu, hát ngao, tạo “không khí” để lại bắt đầu viết cái truyện ngắn bỏ dở. Anh tợp một hớp nước chè tươi nóng, rít một mồi thuốc lào. Cái điếu này bằng nứa già đen nhanh màu gỗ mun, miệng bịt lại, Lâm coi là một vật quư giá. Anh có khắc vào mấy chữ: “Kỷ niệm Quán Giắt – Nông Cống 1954”. Lâm chắp tay sau lưng đứng ngắm bức tranh vẽ một em bé má phinh phính, tay chân bụ bẫm đang vờn một quả táo to, đỏ mọng. Tờ giấy trắng tinh giải trên bàn. Lâm chép lại những ḍng đă viết, nét chữ nắn nót như chữ mẫu ở vở tập đồ. Bỗng nhiên thằng con thứ ba của anh khóc thét lên, đập chân xuống giường đành đạch. Nó nghịch ngợm suốt ngày và có thói quen là cứ đúng nửa đêm, nó nằm mê thấy bạn nó tranh mất con chuồn chuồn hoặc cái tàu bay gấp bằng giấy và khóc nằng nặc đ̣i trả. Anh mở màn quạt phành phạch, xoa lưng cho nó và dỗ măi nó cũng không nín. Anh nổi nóng, phát cho nó một cái thật đau, nó càng khóc già và đạp lung tung. Thế là cả mấy đứa thi nhau vừa ho vừa khóc om nhà. Vợ anh giở ḿnh, làu nhàu một lúc rồi lại ngủ. Dần dần không khí trở lại yên tĩnh. Lâm lại ngồi vào bàn, viết rồi lại xoá, loay hoay măi chẳng thêm được ḍng nào. Khoảng hai giờ sáng anh tắt đèn đi nằm nhưng cựa quậy măi không tài nào nhắm mắt được. Câu chuyện anh bắt đầu viết mô tả một gia đ́nh ở nông thôn bị mấy kẻ giá hoạ vu oan mà vẫn hết ḷng tin yêu Cách mạng. Những nhân vật đang chập chờn trong trí anh, những ư nghĩ miên man về các t́nh tiết đang theo rơi anh, những câu những chữ đến dồn dập lộn xộn. Lâm bật đèn lên ghi vội rồi lại tắt đèn đi nằm, đầu nóng bừng lên như lên cơn sốt. Anh chợt nhớ tới lời đồng chí cấp dưỡng ở nhà báo phàn nàn về cái thói làm việc đêm của các đồng chí nhà văn sống tập thể: “Các ông ấy làm mất cả giấc ngủ của người khác. Cứ nằm một lát lại nhỏm bật dậy đèn hí hoáy viết rồi đi đi lại lại, làm ồn cả nhà. Đề nghị từ nay các ông đi ngủ sớm cho”. Một anh bạn có nói đùa một cách hơi thô trong khi luận về các nghề làm đêm… Câu đùa ấy, Lâm thấy đúng với thời xưa hơn là thời nay. Lâm không tin rằng viết văn th́ cứ phải viết về đêm mới được. Giá có một gian buồng thật tĩnh, một cái bàn giấy tươm tất và một vài điều kiện lặt vặt th́ viết ban ngày cũng được chứ sao?

Trong các văn nghệ sĩ Liên Xô, Lâm thích nhất Sô-lô-cốp v́ theo ư ông này, mỗi nhà văn cần được ở riêng một nhà. Sô-lô-cốp đưa ra một ví dụ ngộ nghĩnh: Nếu tám nhà văn ở chung với nhau, tám cái bếp cùng sôi, tám bà vợ cùng tranh luận với nhau một lúc về ngôn ngữ học th́ các ông chồng c̣n viết lách làm sao được! Bên Liên Xô, tŕnh độ đă cao, các bà vợ đă biết tranh luận về ngôn ngữ học chứ bên ḿnh, trong hoàn cảnh c̣n thiếu thốn, các bà văn nghệ sĩ chưa gột hết tàn tích cũ, lắm khi c̣n khẩu chiến với nhau về một mẩu củi hoặc một củ hành mặc dù họ có thể nhường cơm sẻ áo cho nhau được. Nếu không xảy ra những cuộc khẩu chiến ấy th́ cũng sẵn có những sự lôi thôi khác ngăn cản suy nghĩ ban ngày của người viết văn. Ít lâu nay chị Lâm quen cái lối tính toán vừa buồn cười vừa sốt ruột. Nào là: bài văn tranh luận này mua được một thước vải, nào là: bài thơ kia đong được hơn một yến gạo. Lâm nhiều lần đă giảng giải cho vợ về ư nghĩa cao quư của nghề văn nhưng chị ấy nghe vẫn chưa thông. Một hôm, chị Lâm đang lúi húi thổi cơm, anh Lâm ở đâu hộc tốc chạy vào bếp đọc cho vợ nghe bài báo anh vừa viết, nhan đề là “Văn nghệ, một lợi khí đấu tranh”. Chị Lâm cúi xuống thổi lửa phù phù chẳng chú ư ǵ cả làm cho anh ta tưng hửng. Ngoài những nông nỗi ấy, c̣n chuyện trẻ con ḥ hét, đánh đấm nhau, khách khứa ra vào rậm rịch suốt ngày làm cho Lâm càng quen viết về đêm. Đêm là khoảng thời gian sung sướng nhất. Không gian rộng thêm ra. Mọi cái phiền nhiễu lặt vặt lắng ch́m xuống. Con người hoàn toàn là của ḿnh, hoàn toàn sống với tâm tư ḿnh, nghe thấy rơ từng hơi thở, từng tiếng đập của tim ḿnh. Lâm đă hiểu v́ sao những người hay suy nghĩ thường lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm. Không ngủ được, Lâm đem cái chiếu vơng của con giải lên thềm, ngồi nh́n ra ngoài sân, hít chút gió mát cho tỉnh người. Cây nhăn bên kia tường hàng xóm toả bóng kín nửa sân. Ánh đèn chiếu qua khung cửa hắt ánh sáng lên cḥm lá xanh non của cây khế. Phần ngoạn mục nhất của nhà anh là cái khoảng sân này. Lâm thường ví nó như cái sân nhà Vương viên ngoại khi KimTrọng từ Liêu Dương trở lại t́m Kiều. Những đám rêu mọc ban ngày trông nham nhở bẩn thỉu, ban đêm trông rất nên thơ. Lúc này Lâm ngồi nh́n ra sân để t́m cảm hứng. Cảnh vật u tĩnh như trong sân ngôi chùa cổ. Trăng lặn rồi. Những ngôi sao sáng bật lên, óng ả, khiến người ta nghĩ tới người con gái đẹp buổi sáng trở dậy vừa mới rửa mặt xong. Hồi nhỏ, Lâm có đọc truyện Những ngôi sao sáng của Đi-đê-rô tả anh chàng chăn cừu một đêm có nàng con gái gục trên vai ḿnh dưới bầu trời đầy sao khiến chàng tưởng một ngôi sao sa xuống trần biến thành người đẹp. Lâm nghĩ ngợi lan man. Những người bạn của Lâm giờ này cũng đang mải mê làm việc hay ngủ sớm không thành giấc. Công việc sáng tác đang ám ảnh, dằn vặt họ. Họ cũng đang tranh thủ lấy ít thời gian yên tĩnh, ít không gian rộng răi của ban đêm để sống với tâm tư, để tạo cho ḿnh một không khí thoải mái dễ chịu mà làm việc. Xă hội đang cố gắng thu xếp cho mọi người được sống thoải mái dễ chịu. Sự cố gắng của từng người thật có một ư nghĩa xă hội rất lư thú… Cuộc sống giống như một đoàn xe lửa. Lúc nó dồn toa, các toa va chạm vào nhau, có những hành khách chẳng may ngă kềnh ra. Chuyến xe chùn lại một chút, để rồi tiến nhanh trên đường vạn dặm. Kẻ nào ngồi trong cái toa xe chật vẫn nh́n lên ṿm trời xanh và thích thú v́ đoàn xe đang chạy, kẻ ấy thật có tâm hồn nghệ sĩ. Ví nghệ sĩ như kẻ ngồi trong xe, Lâm thấy chưa đúng hẳn. Phải ví họ như ngọn lửa đốt cháy những ḥn than đun sôi cái nồi súp-de ở đầu máy. Xe không trật bánh là trông mong ở người lái máy. Hai tiếng “nghệ sĩ” khiến Lâm tŕu mến nghĩ tới các bạn ḿnh, những người Lâm gặp hàng ngày, những cái tên Lâm nhắc đến luôn luôn và đối với vợ con anh cũng đă trở nên quá quen thuộc. Ban đêm nhàn tưởng, nghĩ đến nhau cũng là một cách tiêu khiển có ư vị. Lâm không hiểu sao cuộc đời của ḿnh lại gắn liền với cuộc đời của những con người b́nh thường mà kỳ dị ấy. Lũ con anh hay nhắc đến tên bác Vụ, bác Phùng, bác Long, bác Lư v.v… Chúng thấy mỗi bác một vẻ: người th́ nghiêm nghị, người th́ hay đùa nhưng đều giống nhau ở một vài điểm là người nào cũng ngồ ngộ một kiểu riêng, người nào cũng hay làm ồn như trẻ con và hay mua kẹo cho chúng, có khi lại chia tiền với bố chúng như trẻ con chia bánh với nhau. Con Nguyệt, đứa con gái đầu ḷng của Lâm th́ cứ nhăn nhó về việc đun nước và điếu đóm mỗi khi các bác đến bàn căi với bố nó những chuyện đâu đâu. Lẫn với những tiếng lạ tai đối với trí tưởng tượng non nớt của một em bé lên tám tuổi: nào là kỹ thuật, nội dung, nào là công thức, điển h́nh… Nó tưởng toàn là những thứ ăn được cả. Các bác thường rủ nhau đến nhà nó bất kể buổi trưa, buổi tối. Có khi giơ chân giơ tay, tía tai đỏ mặt nói như căi nhau, có khi giở hàng cuộn giấy ra đọc đọc ngâm ngâm một hồi lâu. Bố nó trong lúc bàn căi với bạn hay có dáng điệu bế thằng cu Đán giơ cao lên, rúc mũi vào bụng nó, tỏ vẻ khoái trá. Thằng bé cười như nắc nẻ, đạp đạp hai bàn chân nhỏ xíu vào vai bố. Các bác đến rồi lại đi, đi rồi lại đến. Chỉ khổ cho nó phải đun nước và hót tàn đóm với bă thuốc lào. Lâm thấy diễn lại trong óc những hoạt cảnh như vậy và cũng diễn lại những mẩu đời của từng người bạn. Ư nghĩ chẳng thành hệ thống ǵ…

Vụ giờ này chắc cũng đang tiếp tục viết cái tiểu thuyết trường thiên Tấm t́nh cao cả tả đời sống và t́nh duyên của một anh cán bộ với một chị công nhân. Vụ là một anh chàng đă ngoại tứ tuần, lưng đă g̣ xuống như ông Lă Vọng, hay mặc cái áo đại cán màu xanh bạc phếch và ngày nào cũng lủi thủi đi ở các vỉa hè Hà Nội, tay cắp một cái cặp trông như một ông giáo già. Thời kháng chiến đă từng làm chủ báo, từ ngày tiếp quản, gặp ai cũng bàn về một tờ báo dự định cho ra đời, một tờ báo thật là “trăm phần trăm Hà Nội”. Cái ma-két bỏ trong cặp thỉnh thoảng lại đem ra sửa lại. Anh ta ở một gian gác, bốn năm tháng quên giả tiền nhà đến nỗi bà chủ phải nhắc nhở bằng cách khoá công-tơ điện và khoá máy nước. Vợ đứng tuổi làm nghề buôn gạo chạy chợ nhưng lắm khi phải vay gạo hàng xóm ăn. Anh ta đă có cháu gọi bằng ông ngoại. Bộ mặt hom hem nhưng mắt lại rất t́nh tứ, ban đêm thường ngồi bó củi ở sân gác nghĩ ra các loại truyện t́nh để giáo dục người lớn và truyện vui khoa học để giáo dục thiếu nhi theo một hướng mới. Anh lại tập sự viết cải lương “khai thác vốn cổ” để “cải thiện sinh hoạt”. Chẳng thuộc một điệu hát nào, anh mượn của rạp hát Tân Kỳ một vở về làm mẫu, xoay trần đếm số chữ, ḍ vần bằng vần trắc trong những bài vọng cổ, sàng sê, khốc hoàng thiên v.v… Công việc này nghe chừng cũng gay go, gian khổ lắm. Ngoài ra, anh đang chuẩn bị xây dựng một tiểu thuyết ba bốn trăm trang về những ngày tham gia kháng chiến ở Việt Bắc. Cốt truyện nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên anh đă thuộc ḷng tuy chưa viết thành văn.

Long ở gần nhà Vụ. Người ta thường gọi là “Long đông con”. Mới băm sáu tuổi, anh đă sản xuất gần một tiểu đội thiếu nhi. Anh đă nghiên cứu các sách để hăm cái đà sản xuất ấy lại mà chưa thành công. Tính lầm lí ít nói nhưng uống rượu vào th́ nói nhiều và hay khóc để tỏ ḷng thương bạn. Vợ mượn được một cái máy khâu “Xanh-gie” cũ, hôm nào cũng kỳ cạch may hàng cho mậu dịch đến nửa đêm. Long có khiếu về hài kịch, tuy bề ngoài ít vẻ khôi hài. Hồi giặc Pháp đánh Thái B́nh, anh suưt bị lính “rạch mặt” bắt được. Sau đó, anh viết vở Chống càn diễn khắp Liên khu Ba. Anh luôn luôn bận bịu về việc xây dựng những vở kịch bốn, năm màn. Từ ngày rút khỏi Thủ đô, anh vẫn mơ trở về diễn kịch ở Nhà hát Lớn.

Thành cũng ở một phố nhỏ. Anh là một tiểu thuyết gia có thâm niên nên được xếp vào loại “văn sĩ bậc năm” trong thang lương.

Khi mới về Hà Nội, anh đi thăm tất cả các ga-ra ô-tô để t́m một chỗ trú ngụ. Về sau có người nhường cho một gian gác xép. Bà con khu phố tốt bụng, ủng hộ gia đ́nh anh một mớ ao len cũ. Anh có tác phong thích khề khà, thù tạc với bạn hữu. Bộ đồ trà hai mươi năm về trước c̣n giữ làm kỷ niệm, anh chỉ đem ra tiếp những người bạn chí thân. Hồi mới t́m được chỗ ở, việc đầu tiên là ra chợ giời tậu một mảnh gỗ đánh bóng véc-ni, dỡ ở một cái quầy hàng, đem về làm cái mặt bàn viết. Lại kiếm được một cái đĩa mài mực men xanh ở một hiệu thuốc Bắc, cho vào tí đất thành một cái chậu con, trồng một khóm thạch xương bồ, thỉnh thoảng vẩy vào mấy giọt nước cho nó tươi. Đêm đêm ngồi viết, thỉnh thoảng nh́n bụng vợ một cách ưu tư, nhưng trông thấy khóm cây xanh trên bàn, ḷng lại thấy mát rượi, đủ hào hứng viết tiếp cái truyện Những người dũng cảm. Trước khi đi vắng dăm ba tháng làm phóng sự, anh không quên dặn vợ con tưới nước cho cây thạch xương bồ.

Cái tính yêu thiên nhiên của Thành cũng hơi giống tính Phùng. Anh này là một thi sĩ. Tầm vóc cao lớn, khí phách giang hồ. Lâm đă nhiều lúc say mê nghe anh kể lại những thời kỳ kéo nhị ở rạp hát, đánh vật ở cửa đền, ngao du ở Vân Nam. Phùng rất thích những phong cảnh ở nơi xa, xứ lạ. Anh hay tả lại cảnh hoa đào ở Nghi Lương, tiếng chuông cừu buổi sáng ở cổng thành Mông Tự, chim yến ở Yến Tử động. Phùng lại đă tham dự nhiều chiến dịch ở những miền rừng núi tiếp giáp đất Lào. Anh đại đội trưởng nghệ sĩ ấy có dáng dấp một hiệp khách thời xưa. Anh có hàng “co-léc-si-ông” những chuyện ly kỳ về những nơi đă qua. Quen thói hào phóng, tiêu tiền bạt mạng, thế mà ở góc nhà lại giấu một con lợn đất, thỉnh thoảng anh ta bỏ vào bụng nó dăm chục một trăm “để cuối năm có món tiêu”.

Phùng rất giàu trí tưởng tượng. Trong một bức thư, gửi cho Lâm khi Phùng công tác xa Hà Nội sáu tháng, anh vẽ và tả cái nhà tương lai của những người bạn. Lâm nhớ bức vẽ và một đoạn thư: “… Mai sau cái đời nhà văn sẽ khá. Chúng ta sẽ có một khu đất và những ngôi nhà. Anh hăy nh́n xem: cái nhà cao cao ngói đỏ là nhà đọc sách của hai chúng ta. Cái nhà ngoài sẽ là của riêng anh. Cái nhà thứ hai để tiếp đón bạn hữu những ngày chủ nhật. Cái nhà lấp sau cây và chuồng chim bồ câu đó chính là nhà tôi ở (v́ tính tôi thích tĩnh mịch) Chúng ta sống với nhau thú lắm. Ngoài cổng của khu nhà sẽ đề mấy chữ: 'Vạn cổ thanh xuân trang’ hay 'Biệt thự bằng hữu’ ǵ đó…” Một hôm, đứng trước cửa một bệnh viện chờ giờ mở cửa để khám bệnh tê thấp kinh niên, Phùng tả cái hạnh phúc tương lai ấy như đă có thật. Phùng đang nghiên cứu viết một bài đại luận: “Thơ với nhân loại”.

Ư nghĩ về Phùng trong trí Lâm lôi kéo h́nh ảnh một số bạn thơ khác. Linh, nhà thơ quê ở cửa biển Thần Phù, ḷng lúc nào cũng sôi lên như biển động. Anh ta thuê được một cái nhà cách Hà Nội năm cây số, ngày nào cũng đi bộ bốn lần “để nhớ những ngày kháng chiến”. Sau khi bán cái bút máy nho nhỏ xinh xinh có khắc tên người t́nh cũ, anh ta ân hận măi và có làm một bài thơ thuộc loại lâm ly. Đó là trường hợp hăn hữu. Thường thường anh ta làm những bài thơ thuộc loại “sù ś” chuyên môn đả cái xấu để xây dựng cái tốt. Linh là bạn thân của một nhà thơ “sù ś” khác. Anh này tên là Trang, có bà mẹ mấy thời đại sống nương náu ở gần cái cái cống mà anh gọi là “cống Long Tu” (cống này đă được sửa lại, đời bà mẹ cũng mát mặt hơn xưa). Hồi Pháp thuộc, Trang đặt cho cống ấy một cái tên đẹp đẽ là “ Đầm Hoa sen” lấy ư rằng: sen chẳng nhuốm bùn. Trong nhóm bạn hữu này lại có Bằng nhà thơ của miền Nam, nhà thơ ngọt ngào của nhiều thành phần phụ nữ; Lư, nhà thơ của cửa biển Hải Pḥng, bạc tóc vẫn có số đào hoa…

Nói cho văn vẻ th́ những người ấy “như mây trôi bốn phương trời tụ lại”. Đời họ có nhiều chuyện. Họ mang nhiều tâm tư. Trong tâm tư mới c̣n vướng cả những tâm tư cũ. Về loại này có anh đă làm đến năm tập rồi tự ư đem đốt phăng. Thỉnh thoảng cũng hơi tiếc. Từ tập thứ sáu th́ không đốt. Mở đầu có câu:

Tứ thơ giờ ấm hơi người

Bọn họ cũng có những thói xấu, nết tốt như tất cả mọi người. Họ cũng biết hằm hè bực dọc, lo tính lặt vặt nhưng lại nhiều lúc đại lượng, đáng yêu. Cuộc đời đối với họ có khi quư chuộng, có khi quên lăng hay lạnh nhạt. Chế độ của chúng ta đang cố gắng vun trồng họ, họ cũng đem tâm huyết tưới bón cho chế độ. Kẻ địch dẫu có núi vàng cũng chẳng cám dỗ nổi họ. Ở họ chẳng có ǵ lạ, chỉ có một cái đáng kể là sự say mê. Ngày xưa, có nhà bác học thiêu ra tro cả nhà cửa để làm thí nghiệm một thứ men sứ. Những người nghệ sĩ cũng đă tự tay ḿnh thiêu ra tro nhiều cái lợi lộc riêng tây để thí nghiệm sự sáng tạo nghệ thuật. Có thể thành công rực rỡ, có thể có sự thất bại đắng cay. Sự nghiệp sáng tạo vẫn quyến rũ họ như con mắt của người yêu. Bây giờ, bọn người ấy vẫn c̣n giữ cái thói quen chẳng biết tự bao giờ là sống về đêm. Ban đêm cái phần đẹp nhất của con người họ hiện lên, ghi lại, toả ra và có lẽ không bao giờ mất. Ngày nay, nào ai biết Ban-dắc nợ bao nhiêu món, cáu kỉnh bao nhiêu lần với người xung quanh; Nguyễn Du nhịn đói mấy bữa, lang thang những nơi nào. Nhưng Nguyễn Du, Ban-dắc c̣n để lại những công tŕnh sáng tạo. Ấy là cái phần đẹp nhất của họ, cái ngọn lửa truyền từ đời này sang đời khác làm cho con đường đi của nhân loại sáng sủa ấm áp thêm. Những người nghệ sĩ Việt Nam của thời Dân chủ Cộng hoà cũng có cái hoài băo đem ngọn lửa ấy truyền đi măi măi, chói lọi hơn cả những thời trước. Ban đêm thường họ ngồi âm thầm, dùi mài làm việc giống những đạo sĩ thời cổ ngồi luyện đan. Có khi họ nhắm mắt mà chẳng ngủ, trằn trọc, khắc khoải hơn những người tương tư. Đầu họ bốc lửa, bốc lửa. Người họ tưởng chừng cao lớn hơn lên, vượt qua những gian gác xép, những cái ga-ra, những mái nhà thấp… Nghĩ đến đây chợt Lâm đứng bật dậy đèn. Tiếng c̣i tàu đêm gợi xa xôi. Tiếng chuông đồng hồ hàng xóm thủng thẳng khoan thai. Gió gần về sáng mát rợi làm cho Lâm tỉnh táo. Anh lẳng lặng đến bên giường, vén cánh màn lên, đứng một lúc lâu nh́n vợ con ngủ. Anh kéo tấm chăn nâu đắp kín ngực cho thằng bé đang ho. Anh tự hứa: hôm rằm tháng Tám phải mua cho lũ trẻ mấy con giống bằng bột. Con Nguyệt thích chơi cá vàng, thằng Hồng thích chơi con thỏ trắng… Lâm thấy vui vui nghĩ rằng lũ con anh sẽ có đồ chơi. Chủ nhật sắp tới, một nhóm bạn hẹn đến uống trà, ăn bánh và phê b́nh tác phẩm. Lâm giở quyển sổ tay b́a màu gụ bóng, nắn nót viết một ḍng chữ bằng mực đỏ: Nhất định đêm thứ Bảy viết xong cái truyện ngắn.

Tháng 9-56

Quang Dũng
Những cô hàng xén
(Một bài thơ về quê hương cũ)

Rặng vải ven sông Đáy
Um tùm bóng cuối xuân
Sông cạn phơi ḷng cát trắng
Người qua nâng gánh ôm quần
Những gánh hàng xén bồ căng
Má hồng thôn nữ.
Thoảng mùi thơm quê mùa
Hơi thở ấm trầu răng đen rưng rức
Mẹ già nón nhẹ bay tua.

Rặng vải um tùm quả chín
Ṃng mọng căng lên sức sống chan hoà
Cuối xuân mây lạnh
Đầu hạ gió đưa
Tu hú phương nào bịn rịn

Tu hú tu hú
Mùa vải ven bờ
Nơi quê hương trời xưa ấu thơ
Mái tóc em vừa vương hương bưởi
Chân nhẹ nhàng c̣n dính phấn hoa
Thôn nào cô mới đi qua
Gà vừa gáy sáng
Thắt lưng đào bên sông yên lặng
Kĩu kịt đôi bồ
Các cô hàng xén ngày xưa.

Các cô hàng xén ngày xưa
Gương tṛn bỏ túi, tóc dắt hoa nhài
Hay ngậm ngùi xem Nhị độ mai
Gấp trang sách lại thương đời Cúc Hoa
Trong bồ đủ loại Tây Du
Chinh Đông-Chinh Tây
Bia sơn dầu gáy mốc
Đôi cuốn Thạch Sanh
Một chồng Trê Cóc
Khi gió mùa xuân
Xanh cành tươi lộc
Bói trang Kiều xem chuyện nhân duyên.

Tiếng trống trường xa đă điểm
Đường về trường huyện xôn xao
Các cô đôi má ửng đào
Mấy anh lớp nhất lối nào vừa qua
Hàng các cô:
Ng̣i bút “ba la”
Giấy Tây, phẩm tín
Mươi bó quản bút
Thước kẻ tẩy ch́
Các anh sắp đến mùa thi
Lúa đồng cũng sắp đến kỳ vàng hoe.

Rặng vải quanh đường về
Quả ngả màu hoàng hôn đỏ sẫm
Sông hiu hiu chiều
Gió mát ven đê
Các cô hàng xén gánh về
Tiếng cười khúc khích
Tu hú im rồi
Vàng nghiêng nắng chếch
Các cô về qua sông
Sông Đáy xuôi dải cồn cát mênh mông
Làng bên bờ xanh mía
Thoảng mùi hoa lan hoa nhài nhè nhẹ
Tiếng nói xa dần
Chiều tím cuối mùa xuân
Sông nước trong xanh
Những bước chân tṛn cát mịn

Hàng cau chiều phất phơ
Diều sáo vang lên trăng sáng tỏ
Ngơ làng rộn tiếng cười reo
Chó sủa
Hoa lan vào ngơ tối c̣n thơm
Các cô hàng xén về làng,

Các cô hàng xén về làng
Mai lại đi từ tối đất
Cần cù nuôi mẹ nuôi em
Những cô hàng xén tên xinh
Đẹp như ca dao nước Việt


Phan Khôi
Ông b́nh vôi

Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có b́nh vôi.

Theo như tôi biết, ở vùng quê chúng tôi, có hai thứ b́nh vôi. Đều bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa, cho nhà trung thường dùng; một thứ h́nh tṛn mà đít bằng, trên có quai xách, miệng ở về một bên, toàn thân tô màu lục hoặc màu vàng, cho nhà sang dùng. Cả hai đều để đựng vôi trong ḷng nó. Nhưng mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên.

Nhà tôi, hồi bà nội tôi c̣n sống, có một cái b́nh vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái ch́a quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là “cho ông b́nh ăn”. Và lâu lâu đắp thêm cái miệng nó một lần, hoá nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra.

Thứ b́nh vôi thường, dùng ch́a bằng tre: nhưng thứ b́nh vôi sang, bao giờ cũng dùng ch́a bằng sắt, ở thân cái ch́a, đôi khi lại có đeo một lưỡi dao để rọc trầu.

Nhà khác thế nào tôi không biết, c̣n nhà tôi, tối lại, bà tôi cứ nhớ rút cái ch́a ra để ra một nơi khác. Làm như thế, bà tôi cắt nghĩa rằng “ông b́nh” linh lắm, đêm hôm có kẻ trộm đạo, “ông” sẽ mách cho ḿnh, mà nếu để cái ch́a lấp cái miệng th́ không mách được.

Tôi nói “nhà tôi có một cái b́nh vôi”, không đúng. Nói đúng là từ hôi tôi c̣n nhỏ cho đến năm tôi hai mươi lăm tuổi, bà tôi chết, nhà tôi có ba cái b́nh vôi kế vị nhau. Bởi v́ dùng lâu ngày, trong ḷng đầy vôi khô cứng, miệng nó v́ cứ đắp nên tum húm lại, không dùng được nữa, phải mua cái khác.

Lúc đó nhà tôi có một cái tran thờ Tam vị: ở giữa là Phúc đức chính thần, hai bên là Thổ công và Táo quân. Hễ cái b́nh vôi nào bị thải ra th́ bà tôi bảo đem đặt lên cái tran ấy, thờ nhân thể.

Sự thờ phượng như thế, không phải chỉ riêng một nhà tôi đâu. Cả làng, nhà nào có b́nh vôi thải ra, cũng đều đem đặt trên các tường thành đ́nh hoặc chùa; như thế, người ta cho rằng thờ “ông b́nh” đó.

Cái b́nh vôi, tại sao lại gọi bằng “ông”, đọc từ đầu đến đây, bạn đọc đă biết. Ở vùng quê chúng tôi, mà có lẽ cả nước Việt Nam cũng vậy, vật ǵ nó có thể làm hại ḿnh được th́ gọi bằng “ông”, vật ǵ nó to hay sống lâu năm th́ cũng gọi bằng “ông”.

Con cọp ăn thịt ḿnh được, gọi bằng ông Cọp, con khỉ phá hoại hoa màu của ḿnh được, gọi bằng ông Trưởng; con chuột, cắn quần áo của ḿnh được, gọi bằng ông Tí. Cái đầu rau, dùng năm mười năm mới thay cái khác, gọi bằng ông Núc; cái che, to, đường kính của nó có khi gần đến một mét, gọi bằng ông Che
[1] . Người Việt Nam về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật ǵ làm hại được hoặc lớn hoặc nhỏ, vật ǵ sống lâu và to xác th́ đều gọi bằng “ông” để tỏ ḷng tôn kính, sùng bái.

Tôi có phạm một cái tội hồi mới mười tám tuổi, bây giờ tôi xin tự kiểm thảo và thú nhận.

Năm tôi mười tám tuổi, tôi không tin như bà nội tôi tin nữa. Một đêm mùa hè, gió nam như băo, sáng trăng mờ mờ
[2]
, tôi rủ mấy thằng bạn lứa tuổi với tôi đi dọc đường cái làng, đi qua đ́nh vào chùa, bao nhiêu “ông b́nh vôi” thờ trên tường thành, chúng tôi đều hất một loạt xuống đất cả. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lư luận. Nhưng, vài hôm sau, trở lại xem, không biết là do tay ai, thấy đều đặt lại tề chỉnh trên tường thành.

Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một ḿnh tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng có thể làm thế cả. Nếu ngày nay tôi phải tự kiểm thảo th́ lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi.

Tóm lại, cái b́nh vôi, v́ nó sống lâu ngày, ḷng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cũ rũ trên tran hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, th́ người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ông.

Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ nầy cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái b́nh vôi
Càng sống càng tồi,
Càng sống càng bé lại.



 

*


Trần Duy


Những người khổng lồ
(Gửi những người cộng sản chân chính)

Tôi xin kể các bạn nghe một câu chuyện cổ. Ngày xưa quả đất chưa có người ở, chỉ toàn là cây cỏ núi đá, sông, hồ biển rộng mênh mông. Thú dữ rất nhiều và ma vương quỷ dữ cũng nhiều. Lúc Thượng đế cho những con người đầu tiên xuống, con người hết sức khổ sở. Đời sống ở quả đất bấy giờ chỉ toàn là nước mắt và oán thán. Tiếng khóc tụ lại thành khí, nước mắt bốc lên thành mây dâng lên tận thiên đ́nh. Ngọc Hoàng lo lắng, đau xót vô cùng. Thiên đ́nh lo âu chẳng kém. Một v́ sao tâu:

“Sức người có hạn, mà ma quỷ th́ uy lực vô cùng, vậy nên phái thêm người nhà trời về giúp sức.”

Ngọc Hoàng bèn triệu tập hội nghị Thiên đ́nh, ra chỉ nặn thêm một đoàn khổng lồ cho xuống hạ giới giúp sức loài người.

Thế là chẳng bao lâu, nặn xong lũ khổng lồ, ḿnh cao trăm trượng, tay chân to lớn, sức lực vô địch. Ngọc Hoàng hà hơi sống, lũ khổng lồ cử động, Thiên đ́nh mừng rỡ… Chỉ nay mai hạ giới sẽ chẳng c̣n tiếng khóc và nước mắt.

Đoàn khổng lồ xuống hạ giới: bạt rừng lấp bể, nhổ cây vớt rong, bóp vụn đă như nghịch bột, long trời chuyển đất. Đoàn khổng lồ vui sướng và tin chắc đă làm vừa ḷng trời và thuận ḷng người.

Nhưng một hôm Ngọc Hoàng mở cửa nh́n về hạ giới… Cớ sao tiếng khóc vẫn c̣n?

Ngọc Hoàng phán hỏi Thiên đ́nh, Thiên đ́nh ngơ ngác nh́n nhau. Có v́ sao tâu:

“Việc hạ giới nên triệu Táo quân về đầu đuôi sẽ rơ.”

Mấy hôm sau Táo quân về. Vừa bước tới sân chầu, Táo quân đă vập đầu xuống bệ khóc nức nở. Ngọc Hoàng hỏi:

“Táo thần chưa tâu báo, đă khóc lóc, làm loạn cả quần tiên là cớ làm sao?”

Táo quân vẫn khóc. Ngọc Hoàng nói:

“Táo quân quên rằng quần tiên không có tiếng khóc, và Thiên đ́nh chỉ có tiếng cười và vũ nhạc hay sao?”

Táo quân tâu:

“Hạ thần vẫn muốn như vậy, nhưng trọng trách của Ngọc Hoàng giao cho hạ thần là sống với loài người, chia vui sẻ buồn với họ, thần nỡ ḷng nào cười múa lúc loài người c̣n tiếng khóc và oán hờn?”

Ngọc Hoàng hốt hoảng:

“Thế người khổng lồ hạ giới chẳng làm nên ǵ ư?”

Táo quân tâu:

“Người khổng lồ đă làm đầy đủ sứ mệnh của Thiên đ́nh giao cho là sát phạt ma vương hổ báo, rẫy rừng, khai sông, lấp bể…”

Ngọc Hoàng hớn hở:

“Thật là tin vui… Nhưng cớ sao khanh c̣n khóc?"

"Tâu Ngọc Hoàng, tại v́ loài người c̣n khóc."

Ngọc Hoàng chép miệng:

"Nhân thế sinh kiếp trầm luân có khác! Buồn cũng khóc, mà vui cũng khóc, ta biết làm thế nào?”

Táo quân tâu:

“Tâu Ngọc Hoàng, buồn th́ phải khóc, nhưng mấy khi vui mà lại khóc?”

“Thế hạ giới chưa vui ư? Ma quỷ tan rồi, hùm beo quét sạch, rừng núi san bằng, loài người thảnh thơi, chỉ khác Thiên đ́nh ở chỗ chưa được mùa xuân muôn thuở, tràng sinh bất tử mà thôi.”

Táo quân trả lời:

“Quả thật nhân thế nhờ người nhà trời mà thôi khóc cái hoạn nạn do ma vương quỷ dữ gây ra, nhưng chưa kịp cất lên tiếng cười th́ nhân thế lại bắt đầu buồn về một ít hoạn nạn mới do…”

Ngọc Hoàng sốt ruột hỏi:

“Do ai gây ra?”

“Tâu Ngọc Hoàng… Do chính người nhà trời gây ra.”

Ngọc Hoàng và Thiên đ́nh sửng sốt:

“Cớ sao?”

“V́ người nhà trời bạt núi, khai sông, quên mất loài người bé nhỏ sống gần sông và cạnh núi. Những bản t́nh ca vừa chớm nở, những hoa bướm, những đôi lứa trẻ mới yêu nhau, những t́nh thương nỗi nhớ vừa nhen nhúm, có một số người khổng lồ trông thấy đă xéo bừa lên, giày nát…”

Một v́ sao hỏi:

“Loài người sống chính nhờ cơm, gạo, khí trời, chứ nhờ đâu t́nh ca, và hoa bướm.”

Ngọc Hoàng phán:

“Khi ta tạo con người, ta đă thổi vào người chúng cùng với khí nóng và máu, t́nh thương nỗi nhớ, oán ghét giận hờn, tiếng cười và nước mắt… Những thứ ấy sẽ sống đời đời kiếp kiếp với con người. Không tôn trọng những thứ ấy trong con người là không tôn trọng con người…”

Táo quân lại tâu:

“Vẫn cái số người khổng lồ ấy, không nghe được tiếng khóc, và tiếng cười; Họ nhổ vụt cây chết ma vương hổ báo, nhưng trong khi đánh vung văi sướng tay, loài người cũng chết lây. Xác hoa bướm nằm cạnh xác ma vương hổ báo và xác người!”

Ngọc Hoàng đau xót nh́n Thiên đ́nh. Thiên đ́nh im lặng.

Một v́ sao tâu:

"Nên cho đoàn khổng lồ về để biết tường gốc ngọn."

Đoàn khổng lồ về bái yết. Ngọc Hoàng thịnh nộ:

"Các người công ít tội nhiều, cớ sao đạp xéo cả lên tính mạng con người?"

Đoàn khổng lồ một số ngơ ngác nh́n nhau.

Ngọc Hoàng đập bàn:

"Sao dám đạp cả lên tâm hồn và cuộc sống con người?"

Số khổng lồ ấy càng ngơ ngác nh́n nhau.

Ngọc Hoàng vẫn chưa nguôi:

"Sao giẫm cả lên lời ca, tiếng cười và hoa bướm dưới trần thế?"

Số khổng lồ ấy lại càng ngơ ngác nh́n nhau.

Ngọc Hoàng nh́n đoàn khổng lồ:

"Và các người không đau xót ư?"

Vẫn số khổng lồ ấy ngơ ngác nh́n nhau, nh́n Ngọc Hoàng và Thiên đ́nh… Nhất là những giọt nước mắt của Táo quân.

Sao Thái Bạch bước ra tâu:

"Cứ xem khí mạo, th́ biết trong số khổng lồ có những người có thể mà không có tâm, không biết tiếng cười và tiếng khóc, thần e rằng phủ tạng họ thiếu một thứ ǵ."

Ngọc Hoàng truy hỏi. Nam tào Bắc đẩu cùng với La hầu và Kim tinh xét lại các sổ, đứng ra tâu:

"Đoàn khổng lồ lúc được chỉ nặn ra, chỉ cốt lấy to, nên hết nguyên liệu để nặn tim, cho nên trong đoàn khổng lồ phái xuống hạ giới có một bọn không tim."

Ngọc Hoàng biến thần sắc:

Một v́ sao hỏi:

"Thiết nghĩ đoàn khổng lồ chỉ đánh ma vương quỷ dữ cần ǵ tim?"

Ngọc Hoàng trả lời:

"Nhưng ta tạo nên con người, con người đă có óc phải có tim. Loài người của ta cần sống giữa hoa đẹp hương thơm."

V́ sao lại tâu:

"Nhưng bộ óc to, cánh tay lớn chẳng đủ rồi ư?"

Ngọc Hoàng phán:

"Nhưng cánh tay lớn của một người không tim sẽ đập nát công tŕnh của bộ óc hắn xây dựng."

Khi nh́n về hạ giới, nghe tiếng khóc và nước mắt vẫn c̣n, Ngọc Hoàng chép miệng phán bảo với đoàn khổng lồ:

"Hạ giới vẫn c̣n cần các ngươi, v́ quỷ dữ ma vương vẫn c̣n hoành hành; Nhưng các ngươi phải biết yêu quư con người, tôn trọng quyền sống của họ. Quả đất là của con người, và sửa sang quả đất cũng là để cho con người. Làm công việc ǵ mà con người phải khổ, c̣n khổ th́ dù công việc ấy có thành công cầm cũng như là thất bại. Chỉ có trí óc mà không có tim th́ không thể sống được với loài người."

Sau lời chỉ giáo ấy, đoàn khổng lồ lại kéo nhau về hạ giới, lại như cũ, phá núi ngăn sông, tát bể, làm h́ hục kỳ cho quả đất quang đăng mới thôi.

Ngọc Hoàng lại mở cửa nh́n về hạ giới: Cớ sao hăy c̣n tiếng khóc? Ngọc Hoàng phán hỏi Thiên đ́nh. Có v́ sao tâu:

"Lại xin cho triệu Táo quân về."

Táo quân lại lên chầu trời.

Ngọc Hoàng hỏi:

"Tiếng khóc vẫn c̣n ở hạ giới ư?"

Táo thần tâu:

"Nhân thế biết lượng lớn của Thiên đ́nh, ăn chay nằm đất để tạ ơn Thượng đế, nhưng vẫn c̣n nước mắt!"

Ngọc Hoàng nói:

"Ta muốn ngăn những giọt nước mắt ở hạ giới phải làm thế nào?"

Táo quân tâu:

"Muốn ngăn được nước mắt ở thế gian, th́ trước hết phải biết thu phục được ḷng người."

Một v́ sao hỏi:

"Thế nào là thu phục được ḷng người?"

Táo thần đáp:

"Thu phục được ḷng người là phải yêu người. Yêu người là biết được cái vui mà thật vui chung với người, đau xót trước cái đau xót của thiên hạ. Việc đáng vui nhưng thiên hạ chưa vui được cũng chớ bắt phải cười. Việc đáng khen, nhưng thiên hạ chưa rơ được cũng chớ bắt phải khen. Dù là ư trời, nhưng chưa được ḷng người, ư trời vẫn sai; dù chưa phải ư trời, nhưng thuận ḷng người th́ vẫn cứ xem đó có là ư trời. Dù việc có hay nhưng cũng đừng cưỡng nhân tâm lúc nhân tâm chưa thuận. Ḷng người lúc đă thuận rồi, không bảo vẫn cứ nghe, muôn người như một xô núi cũng đổ, tát bể cũng cạn dù có cấm hát cấm cười, người đời vẫn cứ cười cứ hát… Lúc bấy giờ nước mắt tự nó nó sẽ tan đi."

Ngọc Hoàng nh́n các v́ sao. V́ sao ban năy lại hỏi:

"Thế nào là cưỡng nhân tâm? Táo thần không hay rằng dụ chỉ của Thiên đ́nh đă xoá bỏ những bất công ở hạ giới?"

Táo quân đáp:

"Cưỡng nhân tâm không cứ dùng gươm tên mà uy nạt mới cho là cưỡng. Bất công ở hạ giới như nước mạch thấm vào ḷng đất đời đời kiếp kiếp, chẳng phải phút chốc v́ một dụ chỉ mà nó tan đi. Bất công ở hạ giới là con quỷ già luyện kiếp, thiên h́nh vạn trạng, lúc ẩn lúc hiện, lúc to lúc nhỏ, lúc trắng lúc đen, lúc mặc áo cà sa, lúc mặc áo giấy, cười nói như người. Lúc người suy tôn thần thánh th́ nó thành thần thành thánh để được suy tôn, lúc người khiếp sợ ma vương th́ nó thành ma vương để uy nát, không chừng nó c̣n diện cả hia ngọc, hốt vàng đứng lẫn giữa các v́ sao đây cũng có. Nếu Thiên đ́nh c̣n cho rằng chỉ v́ một dụ chỉ của Thiên đ́nh mà hạ giới xoá bỏ được bất công, th́ tiếng khóc và nước mắt ở hạ giới vẫn cứ c̣n đời đời kiếp kiếp."

Ngọc Hoàng nói:

"Nhưng ta đă phái người của Thiên đ́nh xuống."

Táo quân đáp:


"Tâu Ngọc Hoàng, người của Thiên đ́nh phái xuống có kẻ có óc có tim, th́ họ ở đâu hoa thơm và tiếng cười ở đấy. Nhưng cũng có những người thiếu tim!"

Các v́ sao hỏi:

"Như vậy sẽ có hại ǵ?"

"Th́ số người nhà trời thiếu tim ấy sẽ chẳng được ḷng người, ngược lại ḷng thiên hạ, sẽ cưỡng nhân tâm, và sinh linh c̣n đồ thán, hờn oán Thiên đ́nh."

Táo quân lại tiếp:

"Nước mắt do ma vương quỷ dữ gây ra th́ loài người hợp sức với người nhà trời sẽ diệt được ma vương quỷ dữ. Nhưng nước mắt do người nhà trời gây ra, lẽ đâu loài người lại dám xúc phạm đến Thiên đ́nh mà đụng đến người nhà trời ư? Do đó nước mắt lại ngấm ngầm chảy, tiếng khóc lại càng thầm lặng rền rĩ hơn. Nhưng đáng thương hơn cả vẫn là cái số khổng lồ không tim ấy vẫn tưởng ḿnh đă hoàn toàn mang lại tiếng cười và niềm vui cho hạ giới!"

Ngọc Hoàng thở dài:

"Ta đă mấy lần phủ dụ…"

Táo quân đáp:

"Không biết th́ dạy bảo sẽ biết. Không thấy th́ chỉ giáo sẽ thấy. Không quen th́ làm măi sẽ quen… Nhưng không tim th́ sách vở nào, lời lẽ nào, chỉ dụ nào có tạo nên t́nh cảm được!"

Ngọc Hoàng bóp trán suy nghĩ. Các v́ sao im lặng. Ngọc Hoàng quay hỏi Thiên đ́nh.

"Chư khanh nghĩ thế nào?"

Các v́ sao tâu:

"Đoàn khổng lồ là đạo lính của Thiên đ́nh phái về giúp loài người, nhất thiết không bỏ được; Máu thịt để nặn thành tim cho số khổng lồ ấy cũng chẳng c̣n. Hay là Thiên đ́nh tạo thêm cho hạ giới thật nhiều hoa, nhiều bướm, nhiều tiếng hát, tiếng cười!"

Một số khổng lồ bước ra tâu:

"Nếu chúng ta làm như vậy chẳng khác nào chúng ta tạo thêm hoa thêm bướm tiếng hát và tiếng cười để cho lũ không tim ấy giẫm nát."

Ngọc Hoàng hỏi Táo quân:

„Vậy theo ư khanh nên như thế nào?"

Táo quân đáp:

"Nên làm thêm tim cho số khổng lồ ấy."

Thiên đ́nh đồng thanh:

“Nhưng cạn sạch nguyên liệu.”

Táo quân trả lời:

“Nếu có những người khổng lồ đủ tim đủ óc th́ đó là một điều hay, bằng không thà nặn những người nhà trời chỉ bằng con người hạ giới thôi, mà quả tim thật to; Bàn tay tuy có nhỏ, sức khoẻ tuy có yếu, bước đi tuy có ngắn, nhưng nếu nó có tim, nó sẽ sống cùng điệu với loài người, nghe được tiếng thở dài, và thấy được cái mỉm cười của họ, lúc bấy giờ bàn tay nó sẽ không bóp chết loài người cùng mà quỷ, sức khoẻ nó sẽ không đè chết loài người cùng hổ báo núi cây, bước chân nó sẽ không giầy xéo lên con người cùng với t́nh yêu và hoa bướm. Làm được như thế là thuận được với ḷng người, thiên hạ hỗ trợ, th́ mới trọn được ư trời; Và lúc bấy giờ hạ giới sẽ là nơi Thiên đ́nh thứ hai, đầy tiếng cười và vũ nhạc…”

Ngọc Hoàng gật gù, nh́n Thiên đ́nh cùng cho lời của Táo quân là phải…

Số khổng lồ có tim cũng gật gù nh́n thương hại lũ khổng lồ không tim.

C̣n hạ giới th́ hoan hỉ chờ mong ngày Ngọc Hoàng làm thêm tim cho số khổng lồ ấy, nhất là những người mới bắt đầu biết yêu nhau!!...


 

[1]Che, dùng để dạp mía, ở Bắc gọi là đội hàn.
[2]
Gió nam là thứ gió nóng ở Trung bộ, đêm có gió nam th́ trăng kém sáng.

Thơ cái chổi - Chống tham ô lăng phí
Phùng Quán

Tôi đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt:

Tôi đă gặp
Những bà mẹ già quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu chảy ṛng
Bởi đồn giặc trồng ngô tỉa lúa.

Tôi đă gặp
Những cô gái trồng bông
20? 30?
Tôi không nh́n ra nữa.
Mồ hôi sôi trên lưng
Mặt trời như mỏ hàn x́ lửa
Đốt đôi vai cháy hồng.

Tôi đă đi qua
Nhiều xóm làng vùng Kiến An Hồng Quảng.
Nước biển dâng lên ướp muối các cánh đồng
Hai mùa lúa không có một bông.
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.

Tôi đă gặp
Những đứa em c̣m cơi
Lên năm lên sáu tuổi đầu.
Cơm tḥm thèm độn cám với rau
Mới tháng ba đă ngong mong đến Tết
Để được ăn cơm no có thịt
Một bữa một ngày…

Tôi đă đi
Giữa Hà Nội những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm

Tôi đă gặp

Chị em công nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xắn quá gối
Run lẩy bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con.

Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của quần chúng anh hùng lao động
Đang buộc bụng thắt lưng để sống
Để xây dựng kiến thiết nước nhà
Để yêu thương nuôi nấng chúng ta.

V́ lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ xanh đỏ sáng loà
Như trang giấy kim
Dán lên quân trang
Đẫm mồ hôi và máu tươi của cách mạng
Như công nhân
Tôi muốn đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả!
Các đồng chí ơi!
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem.
Đài xem lễ
[1] họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở.
Mười một triệu đồng dầm mưa dăi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.

Những con chó sói lăng phí quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!

Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ “đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước chúng ta không đếm hết người nghèo
Đêm nay thiếu cơm thiếu áo.
Những tên quan liêu Đảng đă phê b́nh trên báo
Và bao nhiêu tên chưa ai biết ai hay
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gày
Khắp mặt đất
Như ruồi nhặng
Ở đâu cũng có!
Đảng muốn phê b́nh tất cả
Phải một ngh́n số báo Nhân dân!

Tôi đă đến thăm nhiều hố xí cầu tiêu
Giấy trắng nửa mặt, xé toang chùi đít
Những người này không bao giờ họ biết
Ở làng quê con cái nhân dân ta
Rọc lá chuối non đóng vở học i-tờ!

Tôi đă đến dự những phiên toà
Họp suốt ngày luận bàn xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gày như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái
C̣ng lưng, rỏ máu lấn vành đai!

Trung ương Đảng ơi!
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng lập đội quân trừ diệt
- Có tôi!
đi trong hàng ngũ tiền phong.

Tôi gài băy chăng lưới khắp mọi tâm hồn.
Xông khói ớt quạt lùa vào hang hốc.
Lưới bẫy của tôi chẳng tốn tơ tốn sắt.
(Dành công nhân dệt lụa dựng cầu)
Khói của tôi chẳng tốn ớt tốn rơm
Tất cả là thơ ca
Tôi rút từ tủy xương
Hiến dâng hết cho sự nghiệp đấu tranh của Đảng.


*

Trần Công
Một vài ư nghĩ

Tôi bước dần vào ḷng Hà Nội
một sáng đầu thu nắng lên
chưa bao giờ
nắng chiều như hôm nay
trên ngực em gái quàng khăn đỏ.

Tôi bước dần vào ḷng Hà Nội
gió vút lên cao tiếng máy
nhà diêm, nhà rượu, nhà bia
sở thuộc da, nhà máy nước, máy điện
trời ta càng ngợp khói
những nhà máy đó
dân ta càng dễ thở hơn.

Nắng rất nhiều
chưa bao giờ nắng nhiều
như hôm nay
trên ngực em gái quàng khăn đỏ

Tôi bước vào hàng sách
thấy buồn buồn
ít quá
cô hàng chống cằm ngồi mơ đi đâu?

Ôi! người yêu tôi đang buồn tủi
bao giờ cho em vui
sao mà chất nghèo
giá lại đắt.
cửa hàng quốc văn bé quá
so với những thứ khác
cũng gọi là hàng
bao giờ ở nước ta
có một Pie Xê-gơ
[2]
kính cẩn in sách cho
A-ra-gông, Béc-tôn Bờ-rét
[3]
Tôi bước vội ra tai ù lên
Như nghe tiếng nhiều người hỏi tội
Tôi thấy những đôi mắt nghiêm khắc
Của Lỗ Tấn, Goóc-ki, Rô-lăng
Ban-dắc, Sét-spia, Hao-va Phốt
[4]

trừng lên: “Bao giờ các anh mới chịu
đọc sách chúng tôi”.

Nhưng may thay
nắng hôm nay nhiều quá
nắng vẫn sáng trên ngực
em gái quàng khăn đỏ
tôi rẽ vào một nhà in
ngửi thấy mùi giấy
tôi say như thèm hơi thở
trên ngực người yêu
nhưng lật đống giấy
lại thấy quảng cáo hoá đơn của mậu dịch
c̣n nhiều hơn tiểu thuyết

Tôi bước ra đường
lại ngồi cạnh một em bán báo
báo lèo tèo cùng một khuôn
giống nhau như một hàng quân phục
có tờ số xuất bản ra
không cao bằng số bao thuốc lá
bán ở một hàng Bờ Hồ
trong những tờ báo Đảng
các anh quên mất phần con người
thỉnh thoảng c̣n sống sượng
xếp nên những ḍng chính sách trên giấy
các anh có biết rằng
một bộ ngực vừa nhú lên đôi vú
là đời sắp thêm một chuyện mới
của hai người yêu nhau
và Đảng phải lo cho họ
nhưng một số nhà văn ta
v́ thích vỗ tay hiếu hỷ
cũng quên mất nốt
trong đó có những kẻ
nằm ngoan như cục xà-pḥng
có mùi thơm và nhiều bọt

Tôi vào hàng cà-phê
một anh thương binh Nam bộ
tập tễnh đi
chiếc chân Đức mới lắp
hớn hở như trẻ lên hai
tập đi bên tay mẹ
thế mà không ai nói tới
trong lúc đó trên màn ảnh
phim ta nhiều diễn thuyết và vỗ tay
mà một số người quan trọng
vô t́nh đă trở nên tài tử
của Xưởng phim Thời sự

Nhưng may thay
nắng hôm nay nhiều quá
nắng sáng rực
trên ngực em gái quàng khăn đỏ

Có người chỉ đường
miệng rít c̣i
mắt mải nh́n theo một tà áo tím
để đọng lại một số xe
nhưng khách qua đường
đă vui vẻ cười
dễ tính

Vải vóc muôn mầu
nhiều lắm
hoa muôn mầu
nhiều lắm
nhưng bao giờ sách báo cũng nhiều
như hoa
tôi sẽ cao giọng
hát một bản t́nh ca
tặng các nhà xuất bản.

Hà Nội, 9-1956


*

Lê Đại Thanh
Cuốn sổ tay

Khi tôi đến th́ Bảo sắp tắt nghỉ. Đôi mắt đă dại hẳn, đồng tử đưa ngược lên, Nhưng đôi môi lắp bắp thoáng một nụ cười, đôi môi như đang nói một câu ǵ chưa dứt đoạn với một người thân nào ở xa.

Sách vở, mấy bản thảo, giấy má, một số phác hoạ ném trên bàn, trên mặt chiếu hoa, dưới đất, nằm cả trên ngực, trên cánh tay người sắp chết. Một bông hồng quế đỏ tươi cắm trong một chiếc cốc nước pha lê trong suốt. Một bức ảnh in trên giấy lụa mầu nâu để dựng nên một chồng tác phẩm ngoại quốc. Bức ảnh chụp một bến sông có một người đàn bà ăn mặc cán bộ đứng quay mặt lại vẫy nón chào ai, Nét mặt có một sức cám dỗ đặc biệt nhất là nụ cười toát ra một t́nh yêu thắm thiết say mê.

Tôi là người biết rơ Bảo hơn ai hết. Anh là người yêu bạn hơn bản thân ḿnh và có thể hy sinh tất cả để làm một việc anh thích. Không có một điều ǵ anh không nói với tôi. Nhưng hôm nay nh́n bức ảnh, tôi thấy c̣n một chuyện anh giấu hay chưa kịp nói. Tự nhiên tôi thấy thương Bảo vô cùng. Mỗi người chết như mang đi một câu chuyện, một tâm t́nh, một cuộc đời. Người văn nghệ sĩ chết chôn với ḿnh ít nhất một tác phẩm.

Tôi phải can đảm lắm mới chặn nổi mấy ḍng nước mắt nghẹn ứ ở cổ khi Bảo nắm chặt tay tôi thầm th́ như nói một ḿnh.

“Biển mặn nuôi ngọc trai. Ngọc trai có là v́ biển mặn. Có ai nuôi ngọc trai trong ao tù được đâu. Người làm văn làm thơ, người nghệ sĩ cũng chỉ là những con trai nhả ngọc, Không làm được việc đó đau xót như người đàn bà không có con… Tác phẩm là ḥn máu của người văn nghệ sĩ để lại cho đời.”

Nói xong anh tắt nghỉ.

Tôi nhắc cuốn sổ tay trong tay người bạn với cảm giác đang rứt ra một trái tim nâng trong tay ḿnh, Một mảnh giấy nhỏ vương ra, tôi đọc:

“Gửi anh cả sinh mệnh của tôi”.

“Có ai đến lấy th́ anh đưa, nếu không đó là kỷ niệm nhỏ tôi tặng anh, v́ đó là cả một cuộc đời. Chưa tác phẩm nào của chúng ta nói lên được con người xứng đáng giai đoạn của chúng ta. Anh cố gắng làm việc đó.”

… Tôi hiểu cả. Cuộc sống của chúng tôi kết tinh cả ở đây, từng giọt tư tưởng chắt lại trên những trang giấy nhỏ, tôi nghĩ đến cuốn sổ tay của tôi. Con ong phải lấy phấn trăm hoa rừng lọc qua cơ thể mới nhả nổi một giọt sương mật. Một trang sổ tay có thể là một ngày sống, một đêm trắng, một cuộc gặp gỡ - một lời nói yêu thương hay mấy nét nguệch ngoạc viết giữa phút cái sống và cái chết giằng co nhau.

Một trang sổ tay có thể là một mảnh đời bỏng nung cuộc sống.

Phải đấu tranh tư tưởng măi mới dám đọc. Đọc cuốn sổ tay của người văn nghệ sĩ như đi sâu vào cuộc đời một người đàn bà - Đêm tối đầy bí mật nhưng cũng đầy những v́ sao lấp lánh khó khăn lắm mới lách nổi qua những con đường đi của tâm t́nh.

Người đàn bà ở đâu cũng có một chỗ đứng rất đặc biệt nhất là trong sổ tay của người văn nghệ. Nhiều chữ nhiều câu viết tắt – ghi bằng dấu – những tên chỉ là một chữ hoa, một nét vẽ tượng trưng.

Có những phác hoạ một khuôn mặt trái xoan, một đôi mắt dài và xếch, một cặp môi hiền dịu nét vẽ mềm và nhanh rất linh động. Má hồng nhiều khi là hai vết mực xanh đậm.

Vài trang đánh dấu những ngày qua một đồn giặc ở địch hậu – mấy trận đánh dọc theo sông Luộc, mấy đợt phát động quần chúng ở Việt Bắc và cả đợt cải cách ruộng đất gần đây.

Rồi những câu thơ viết dở, những chủ đề của một số truyện ngắn truyện dài. Chữ viết li ti, mực phai nhoà (v́ mưa hay v́ mồ hôi, nước mắt?). Có tờ c̣n mang cả vết bùn.

Giở từng trang giấy, đọc từng ḍng, tôi thấy cuốn sổ tay không c̣n phải là một vật riêng biệt của người đă chết. Tôi lọc ra một số trang ghi chép – sắp xếp lại cho có hệ thống – Tôi muốn làm sống lại bạn tôi. Tư tưởng con người vẫn là một cái ǵ bất diệt khi nghệ thuật làm rung lên rất mạnh con tim người đọc ḿnh, xem ḿnh, nghe ḿnh cũng vậy.

Đây là nội dung mấy trang giấy nhỏ:


4-6-47. Tôi phải viết. Tôi muốn viết rất nhiều. Tôi thèm viết như người đói thèm ăn. Chung quanh tôi người ta sáng tác khá nhiều nhưng chưa thấy một tác phẩm nào dựng được một con người cho đúng. Tôi lao vào đi t́m con người trong chiến đấu. Con người lù lù trước mắt như rặng núi xanh to lớn vĩ đại. Nhưng đi đến con người cũng như đi đến với trái núi. Mầu sắc, h́nh dáng, cây cỏ, cả đến cảm xúc, t́nh cảm không c̣n giữ tính chất đầu tiên của nó. Có lúc tôi đă thất vọng lo sợ, tôi muốn nắm lấy con người. Con người như ḍng nước chuồi dưới tay tôi. Nhưng tôi không chịu nản.

13-1-48. Tôi đă nh́n rất kỹ cuộc sống chung quanh, tôi ghi chép hằng ngày những sự việc, tôi sống với người nông dân để viết. Bản thân tôi có lúc chùn lại trước một sự thực sống giữa con người mà không trông thấy con người.

Tôi đă t́m ra một chân lư cho tôi: Cả bao nhiêu thế kỷ chung đúc lại mới có được một Nguyễn Du.

25-12-49. Địch đă đổ bộ lên Sa Cát phía gần Cầu Bo Thái B́nh. Chúng dồn nhân dân tới sát biểu định cắt đôi Liên khu III để tiêu diệt quân đội chúng ta. Bản hùng ca của dân tộc đang được những người vệ quốc quân và những du kích viết bằng dao quai bằng súng và cả bằng máu ḿnh nữa.

Đứa con gái lớn của tôi cơng đứa em bé lên ba theo nhân dân hồi cư khóc nói với tôi:

"Con về quê tăng gia để nuôi em. Nhưng bố đừng để chúng con phải chờ lâu bố nhé."

Tác phẩm của tôi viết bằng nước mắt đang mọc rễ trong đầu tôi.

Rồi mặt trận vỡ.

Những người vệ quốc quân gan dạ im lặng bọc vũ khí vào chiếu, chia thành những đơn vị nhỏ chuyển vào h́nh thái chiến tranh bí mật.

Tôi không muốn viết ǵ lúc này. Chỉ c̣n một con đường: phải t́m hiểu những con người trước mắt của tôi. Tôi đă đi theo một đơn vị tác chiến…

3-3-1950. Hôm nay địch quây tṛn càn quét. Và cũng hôm nay tôi nhận thấy giá trị của con người, Chúng tôi bị o ép trong một ṿng vây hẹp như ḷng bàn tay. Chỗ nào cũng thấy bóng địch: ruộng ngô, bờ đê, trên cầu, trong mấy chiếc đ́nh vùng Cầu Nại, cả trên mặt sông. Địch cứ vây, chúng tôi cứ chạy, hai bên nh́n thấy rơ mặt nhau,

Có lúc tôi có cảm giác là con chim bị mắc cạn, rúc đầu vào nan lồng mà không chỗ nào t́m thấy lối thoát ra. Lúc người ta mạnh dạn đương đầu với cái chết là lúc tôi nghe ḷng con người vững chắc nhất.

Một chị cán bộ mặc áo cánh trắng đeo chiếc túi xanh thay vội chiếc áo nâu, thản nhiên nói to bảo nhân dân:

"Các ông các bà cứ đi vào mấy làng trước mặt kia, thế nào cũng có cách tránh tai nạn."

"Nhưng đấy là làng tề!"

"Tề th́ cũng là chúng ta. Vào là sống."

Giọng nói sắc và gọn. Đôi mắt xếch và dài của người cán bộ nữ sáng một nét rắn rỏi.

Chúng tôi rẽ xuống băi ruộng ngô xanh nhắm gốc cây gạo phía trước mặt mà tiến. Bùn phù sa láp nháp bám chặt lấy bàn chân lôi chúng tôi lại. Tôi cứ nh́n chiếc áo nâu và chiếc túi con xanh mà bước. Có một sức mạnh thúc đẩy, quấn chặt lấy đầu óc, lôi cuốn. Tâm thần căng thẳng.

Tôi không nh́n thấy địch, không nh́n thấy nguy hiểm, mà nh́n thấy một tác phẩm hiện h́nh…

Thế là thoát. Bẩy hôm sau, tôi, Lư và mấy người cán bộ quân sự luân phiên nhau nằm hầm bí mật và đi nghe ngóng tin tức.

Sống một tuần trong hoàn cảnh tôi là sống bảy năm trong cuộc đời. Tôi thầm cám ơn sự may rủi cho tôi gặp tai hoạ – và gặp Lư. Con người văn nghệ ở trường hợp sáng tạo, khát khao sống – say mê sống - thèm uống vào sự sống ừng ực từng ngụm lớn. Con người, tôi đă t́m thấy ở đây rồi.

Tôi nhớ măi tiếng đạn tiểu liên reo khô xé rách mướp những thân ngô non. Con chó Béc-giê cao lêu nghêu chồm qua băi ruộng cắn lên những tiếng ông ổng. Tôi ngửi rơ thấy cả mùi hôi khai và nồng ở người nó bốc hơi. Lư giật mạnh cánh tay tôi kéo nằm úp mặt xuống một rảnh đất sũng nước. Một người đàn bà nông thôn đang nằm với chúng tôi vụt chồm dạy xoă tóc ra kêu rú như người điên. Bốn tên lính Pháp ập tới kéo vội đi. Tôi nghe rơ tiếng Lư rít hàm răng lẩm bẩm:

"Quân dă man!"

Ba hôm liền chúng tôi phải nhịn đói, chân tay tê dại. Đôi mắt dài và xếch của Lư mỗi phút như bắt mạch tinh thần lên xuống của chúng tôi tất cả năm người. Có lúc đôi mắt Lư gặp đôi mắt của tôi. Chúng tôi nh́n nhau rất lâu không nói ǵ. Tôi đă sắp xếp được trong đầu tôi cả một câu chuyện. Sáu tiểu đoàn địch kéo qua Cầu Nai xuống ca-nô về Nam Định, Tiếng súng Pạc Hoọc hay tiểu liên từng phút nổ ṛn qua những cành cây me, và cây gạo làm bay lên từng đám quạ đen. Từ dưới hầm nước sâu, tôi nghe thấy cả cuộc đời bên trên – tiếng kêu, tiếng doạ nạt – tiếng van lơn – tiếng khóc của một em gái – tiếng cười ồm ồm của mấy tên quỉ dâm ô.

Lư và tôi nhiều khi phải nhắm mắt lại tránh nh́n nhau. Cái đau xót cái căm uất thấm vào mạch máu, vào tim, vào óc nhức nhối khi kim châm không chịu được. Cái đau xót của đồng bào chúng tôi thấy khắc vào da thịt chúng tôi hằn thành những nét chạm phù điêu.

10-3-50. Hôm nay người nông dân giấu chúng tôi mang cho mấy củ khoai và một mo cơm nắm chỉ tay về phía Duyên Hà nói vội:

"Các anh các chị đi cho nhanh – Bọn Pḥng Nh́ và hương dũng ở Hưng Nhân xuống đang đi sục hầm, t́m cán bộ ấy."

Chúng tôi đi tắt ở cổng sau lội qua ruộng nước.

Lư chuyển cho mỗi người mo cơm dặn ăn đỡ ḷng một hai miếng c̣n phải để dành.

"Có thể chúng ta chưa bắt được liên lạc ngay đâu."

Bảy hôm mặt trận vỡ.

Bảy hôm tôi yên trí là địch đă càn quét hết cả khu hoạt động của chúng tôi.

Nhưng mới đi được một giờ bỗng chúng tôi nghe thấy tiếng súng cối và tiếng lựu đạn trong một thôn xa. Một anh cán bộ quân sự nghe ngóng một tràng đại liên rồi kêu to.

"Đúng là quân ta rồi!"

Những con mắt t́m nhau. Từ bé tới giờ tôi mới được thấy hănh diện là người. Tôi muốn ôm lấy từng đồng chí chung quanh, để nói một lời vui. Tôi thấy dân tộc gian khổ quá và vĩ đại quá.

Lần thứ nhất tôi thấy Lư cười – đôi môi mỏng có một nét đồng tiền lúm xuống ở góc.

Nhiều trang sổ tay của Bảo ở đoạn này bị đứt quăng. Nước mưa, vết bùn dính một tập ngắn vào nhau.

Từ đoạn sau có nhiều những câu ngắn hằn học, bất măn. H́nh như có một giai đoạn nào đó Bảo không vừa ư với cuộc sống.

Tôi chép lại đây mấy câu thơ khôi hài viết bằng chữ mực mầu cánh cam tươi.

Đời tôi như chiếc ba lô rách
Thủng cả hai đầu đứt cả quai

Dưới đó có mấy ḍng chú thích bằng bút ch́ nét yếu và mềm nhưng chữ rất nắn nót:

"Đừng viết thế, dù đó là sự thực. Anh em thân người ta lại cười cho."

Kư tên: Người bạn ra đi

Tiếp theo mấy trang sau có bốn câu thơ ghi vội bằng mực đỏ:

Người về đuôi mắt ngời sao
Rưng rưng lệ nhỏ má đào nhẹ hoen.
Người đi tựa cánh mui thuyền
Bâng khuâng mơ dải tóc huyền phủ vai.

5-4-1950. Tôi thèm viết quá rồi, không chịu nổi sự thằn thúc của sáng tác. Nằm trên một sàn gác tôi khơi to đĩa đèn dầu chẩu để viết. Tôi viết hối hả như người đói được ăn. H́nh ảnh Lư giúp tôi rất nhiều. Có lúc mệt quá ngủ gục trên sàn tre. Nghe tiếng trâu rũi sừng vào cột ngoàm thở ph́ ph́ mới mở mắt th́ người chủ nhà đă thức dậy giă th́nh thịch một cối lúa lấy gạo ăn bữa sáng để cả nhà c̣n đi rừng. Tôi nh́n rất lâu bức ảnh của Lư chia tay trên sông. Số giấy viết cạn dần nhưng sau ba tháng làm việc tác phẩm đầu tay của tôi đă thành. Tôi viết đi viết lại năm lần.

Sau mấy trang này tôi đă nắm được sự việc v́ Bảo đă kể cho tôi nghe câu chuyện của anh. Sau ngày qua sông, anh vượt bến đ̣ Nhật Tảo về khu t́m cách cho in tập truyện của anh. Nhưng người phụ trách sau năm tháng nhận xét trả lời gọn lỏn một câu viết trên một mẩu giấy báo đưa cho liên lạc cầm ra.

"Lúc này cần in những tập ca dao, hay kịch tuyên truyền để phục vụ đ̣i hỏi trước mắt. Trả lại anh bản thảo để anh sử dụng. Nếu có điều kiện sẽ viết thư cho anh sau."

Bảo uất ức để đầu trần đi lang thang trên con đường Xích Thổ giữa ban ngày. Thời kỳ này là thời kỳ máy bay địch ráo riết kiểm soát các đường giao thông của chúng ta. Bảo bất chấp cái chết. Anh rủ tôi đi vào miền địch hậu Nam Định. Ở đây chúng tôi đă gặp một thi sĩ dùng những bản đất in thơ, rồi cho vợ gánh từng tập ra chợ bán. Thơ dí dỏm nói đúng sự việc của địa phương. Giá lại rẻ vừa với túi tiền của bà con đi chợ nên những tập thơ nhỏ bán chạy như tôm tươi.

Bảo cũng rất tán thành cách làm việc tháo vát thích ứng với hoàn cảnh của người bạn thi sĩ! Nhưng anh cũng rất buồn về việc đó. Anh làm một bài thơ châm biếm dài mà tôi c̣n nhớ mấy câu:

 
Ṃn tay viết lách năm năm
Thơ in đất thó truyện nằm ổ rơm
Gác sàn gối cánh cô đơn
Giấc mơ gặp bạn chập chờn lửa khuya

 
Câu chuyện đến đây là chấm hết. Mấy tờ cuối cuốn sổ tay bị xé rời mép c̣n gợn vết răng cưa. Gần một tháng tôi t́m cách lục lại một số tài liệu và các bản ráp khác của Bảo để xem có ǵ sử dụng được không. Tôi muốn làm sống lại bạn tôi dù chỉ bằng mấy ḍng ngắn: Người văn nghệ sĩ thường cũng chỉ có hai bàn tay trắng và cái thiên tài của ḿnh làm cái vốn độc nhất trong đời. Không thể hiện được cái thiên tài đó bằng tác phẩm, chết không nhắm mắt nổi. Th́ một hôm có một người đàn bà đến thăm tôi.

Khuôn mặt gầy, đôi mắt xếch và dài, nét da xanh mái. Chúng tôi nói chuyện rất lâu về sáng tác, những thắc mắc của con người sáng tác, những giằng co vật lộn của nội tâm trước vấn đề sáng tạo nhân vật dựng lên cuộc sống. Người đàn bà tỏ ra thông minh và rất am hiểu văn nghệ.

Tôi hỏi tên, người đó không nói.

Chỉ khi ra về, chỉ một ngón tay lên mặt bàn đúng vào một tập tài liệu:

"Tôi muốn xin ông những cái này v́ đây là một người tôi quen thân."

Tôi bất giác kêu lên:

"Đồng chí là người kí tên ở dưới bài thơ của anh Bảo phải không?" Người đàn bà khẽ gật đầu, nhẹ nhàng rải chiếc khăn tay lụa mỏng kẻ ô đỏ gói cuốn sổ tay và tập bản thảo để ở góc bàn của tôi, trân trọng như gói một di vật hay một mớ ngọc châu.

Khi người ấy đi khuất đă lâu, tôi bàng hoàng như vụt tỉnh một giấc mơ, tự trách ḿnh là quá nhẹ dạ tin người, và nhận thấy tôi có lỗi nặng với Bảo.

Nửa tháng sau tôi c̣n hối hận về việc đó, nhất là việc quên không hỏi tên và địa chỉ người đàn bà, th́ một hôm nhận được một phong thư chữ mực viết mầu xanh cánh cam thật tươi, nét yếu nhưng rất duyên dáng.

"Cám ơn ông đă tin ở tôi. Người bạn thân của ông không dặn tôi địa chỉ của ông th́ tôi không biết đâu mà đến. Tôi quí những bản thảo và cuốn sổ tay của Bảo hơn cả ông và hơn cả Bảo nữa. V́ tôi là một người đàn bà, một người đàn bà rất yêu văn nghệ, hiểu rơ tâm trạng những người văn nghệ. Bảo đă khuyến khích tôi viết mấy năm gần đây nhưng anh căn dặn tôi rất kỹ: ‘Cuộc đời không cho chúng ta không cái ǵ. Mỗi ḍng viết của chúng ta phải đổi bằng một ḍng nước mắt’. Tôi quí trọng và mến Bảo v́ anh đă say mê cuộc đời, biết yêu thương con người. Tôi cho là một dân tộc văn minh không sao không yêu những người văn nghệ chân chính. Họ hy sinh cả cuộc sống của ḿnh, quên cả giầu sang để phục vụ một quần chúng không bao giờ gặp, hay có khi chưa có mặt trên trái đất khi họ viết.

Tôi cũng đang muốn hy sinh cả cuộc sống của tôi đấy ông ạ, nghĩa là tôi làm văn nghệ. Liệu tôi có may hơn Bảo không? Nhưng cuộc đời nó là thế. Con thiêu thân yêu ánh sáng đèn và chết v́ ánh sáng đèn, nhưng có con thiêu thân nào sợ ánh đèn đâu. Ngọn lửa chúng ta cùng thắp lên phải chuyền từ tay người này tới tay người khác mới làm được cái sứ mệnh soi sáng được tâm hồn con người đă chết như Bảo.

Tôi không c̣n ân hận ǵ nữa khi được giữ cuốn sổ tay của Bảo. Nó sẽ giúp cho tôi làm được một cái ǵ. Cuốn sổ tay văn nghệ của tôi sẽ bắt đầu làm việc từ hôm nay đấy.

Kư tên: Lư"

Tự nhiên tôi thấy nhẹ hẳn người như vừa trút được một gánh nặng. Tôi thấy không cần phải thương bạn tôi nữa, H́nh như trong cuộc sống anh đă t́m thấy một con người.


 
*


K.
Ngụ ngôn: T́m ưu điểm


Một dạo, giữa loài dở cạn dở nước mở cuộc thi sắc đẹp. Nhân có sự tranh chấp, ba con ếch, cóc, ếch ương đấu khẩu với nhau. Tiếng cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến Trời.

Trời sai nhái bén làm trọng tài. Nhái bén từ chối: Con nhỏ hơn hết, con không dám có thẩm quyền trên ba chị ấy.

Trời phán: Chỉ có mầy là đồng loại với chúng nó, mầy sẽ làm vừa ư ta, không được từ chối.

Sau khi cực chẳng đă phải làm trọng tài, nhái bén tâu kết quả: Ếch ương giải nhất, ếch giải nh́, cóc không ở giải nào cả.

Trời tỏ dáng không vui, bảo nhái bén: Mầy cố hết sức t́m ưu điểm của cóc xem.

Nhái bén tâu: Chị ấy mụt mằn khắp cả người, con không t́m ra ưu điểm nào hết.

Trời phán: Thôi, cho mầy đi về.

Mấy hôm sau, có nghị định của Hà bá sức về: Nhái bén bị đày vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa.

Nhái bén gặp cá trê, kể cảnh ngộ của ḿnh.

Cá trê bảo: Mầy dại lắm. Đi đâu chẳng biết “con cóc là cậu ông Trời”? Tao đây mà cũng c̣n thua kiện nó nữa là...


 

[1]Đài xem lễ do ủy Ban thành phố Nam Định dựng lên để các đại biểu đứng xem lễ. Việc này đă bị phê b́nh ở báo Nhân dân.
[2]Pierre Seghers: một nhà thơ vừa là nhà xuất bản tiến bộ Pháp
[3]Aragon, Bertolt Brecht: thi hào Pháp, Đức
[4]
Tên những đại văn hào thế giới.
 

Hồng Lực
Tiếng nói của t́nh yêu

Em mười tám tuổi
Giữa cuộc đời
Như một ngôi sao sáng
Giữa bầu trời
Em có tội ǵ đâu?
Tại sao sấm sét nổ trên đầu?
Họ bắt em lừa ḿnh tự dối
Họ bắt em kiểm điểm nhận liều
Thân bị trói bởi những lời buộc tội
Không!
Em là tuổi trẻ! T́nh yêu!
Em là bông hoa tươi thắm
Dưới ánh mặt trời, tắm nắng
Em có ǵ đâu
Chỉ một Trái Tim
Và một Tấm Ḷng
Em hát vang lừng
Đi khắp núi sông
Biển rộng, trời cao, bát ngát
Sóng trong tim dào dạt
Tay giơ cao ngọn đuốc T́nh Yêu!
Anh ơi!
Cuộc đời bỗng đẹp lên nhiều
Yêu em
Anh càng yêu Đất Nước
Quư em
Anh càng quư cuộc đời
Niềm thương yêu, đặt cả trên môi
Truyền cho nhau sức mạnh
Bay, bay đi! Chúng ḿnh mọc cánh
Chân ḿnh đạp hết chông gai
Em là con chim
Tha mồi làm tổ ngày mai
Đuốc T́nh Yêu không thể nào dập tắt
Hoa T́nh Yêu chỉ nở không tàn
Hương càng thơm, tiếng hát càng vang
Gió càng mát, trăng thu càng sáng.

(9-1956)


*

Hữu Loan
Cũng những thằng nịnh hót
(Sau khi đọc bài: “Những thằng nịnh hót” của Maiakovski)

Dưới thời kỳ Pháp thuộc
Những thằng nịnh hót nghênh ngang
Lưng rạp trước quan Tây
Bắc vợ như thang
Chân trèo lên danh vọng
Đuôi vợ chúng đi
Lọt theo đầu chúng
Bao nhiêu nhục nhằn;
Nhục mất nước muôn phần
Nhục cùng đất nước
với những thằng nịnh hót

Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ dân chủ cộng hoà
Những thằng nịnh c̣n
thênh thang
đất sống
Không quần chùng, áo thụng
Không thang đàn bà
Nhưng c̣n
thang lưng
thang lưỡi

Những mồm
không tanh tưởi
Ngậm ṿi đu đủ
Trợn mắt
Phùng mang
Thổi vào rốn cấp trên
“Dạ, dạ, thưa anh…
Dạ, dạ, em, em…”
Găi cổ
Găi tai:
… anh quên ngủ
quên ăn
nhiều quá!

Anh v́ nước
v́ dân
hơn tất cả
từ trước đến nay

Chân xoa
và xoa tay,
Hít thượng cấp
vú thơm
như mùi mít

Gọi như thế là
phê b́nh cấp trên
kịch liệt
Gặp cấp trên chủ quan
Mũi như chim vỗ cánh
Bụng phềnh như trống làng:
Thấy ḿnh
đạo đức
tài năng
hơn tất.

Như thế là chết rồi:
Quân nịnh
tha hồ lên cấp
Như con ǵ nhà gác lên thang
C̣n muốn lên thủ trưởng cơ quan
C̣n đi đây
đi đó
Lưỡi và lưng
Lắm chằng gian khổ
Chúng nó ở đâu:
Thối thóc thuế
Mục kho hàng
Phong trào suy sụp

Nhân dân mất cắp
đang giữa ban ngày
To cánh và to vây

Những ai
không
nịnh hót
Đi, mang cao
liêm sỉ con người
Chúng gieo hoạ gieo tai
Kiểm thảo
hạ tằng
C̣n quy là phản động!
Có người
đă chết oan
v́ chúng
Vẫn thiết tha yêu chế độ
đến hơi thở cuối cùng

Nguy hiểm thay,
Thật khó mà trông:
Chúng nó nguỵ trang
Bằng tổ chức
bằng quan điểm nhân dân
bằng lập trường
chính sách

Chúng nó
c̣n thằng nào
Là chế độ ta
chưa sạch
Phải làm tổng vệ sinh
cho kỳ hết
mọi thằng

Những người
đă đánh bại
xâm lăng

Đỏ bừng mặt
v́ những tên
quốc xỉ
Ngay giữa những thời nô lệ
Là người chúng ta
không ai biết
cúi đầu.

(9-1956)


*

Hoàng Huế
Một bản đề án về Đại hội Văn nghệ lần thứ hai

Dù tất cả những ǵ đáng tiếc đă xảy ra, hôm nay, tôi vẫn muốn mở đầu bản đề án của tôi bằng lời chân thành cảm tạ Đảng. Câu sau đây nhắc nhở tưởng cũng không thừa: chỉ có chế độ ta, chế độ do những người cộng sản lănh đạo, chế độ ấy, và con người trong chế độ ấy mới có thể thẳng thắn nói lên những sai lầm của bản thân ḿnh. Đúng như vậy. Hôm nay, nếu chúng ta nói được tất cả những băn khoăn, nếu chúng ta viết được những trang sách chiến đấu, chính v́ Đảng đă dạy chúng ta, Đảng yêu cầu và cho phép chúng ta được nói được viết.

Và nếu hôm nay, tôi can đảm thảo bản đề án này, chính v́ tôi biết Đảng sẽ tôn trọng sự suy nghĩ, cũng như tôn trọng những đề nghị chân thành của chúng ta.

Điều này chắc chắn không ai có thể chối căi: Đảng ta, từ lúc mới khai sinh trong một khu rừng xanh, cho tới nay, lúc nào Đảng cũng dựa trên lư luận Mác-Lênin mà lănh đạo nghệ thuật.

Nhưng nếu mười năm qua, nền văn nghệ Việt Nam đă mang nhiều sai lầm nghiêm trọng, chính v́ Đảng chưa có một chính sách thật rơ ràng, thật cụ thể đối với văn nghệ sĩ.

Bây giờ, cũng như Đảng Trung Quốc vừa công bố chính sách “trăm hoa đua nở” làm nở ra những bông hoa mới, chúng ta nghĩ rằng: đă đến lúc Đảng ta cũng cần tuyên bố dứt khoát chính sách như thế. Đó là yêu cầu tha thiết của tất cả những người viết văn, làm thơ, đóng kịch, hội hoạ và soạn nhạc. Đó cũng là yêu cầu tha thiết của quần chúng muốn thưởng thức những tác phẩm hay.

Trong văn kiện ấy, chúng ta mong rằng Đảng sẽ có thái độ đối với một số người hẹp ḥi, thủ phạm của bao nhiêu sai lầm nghệ thuật. Đảng sẽ xét lại vấn đề Trần Dần và cuốn Giai phẩm, mà theo ư một số đông anh em tuy có ít nhiều khuyết điểm, nhưng cũng có công mở ra một hướng đi mới cho văn nghệ chúng ta. Giải quyết được vấn đề trên, tức là giải quyết được tất cả quan niệm nghệ thuật rộng răi này.

Cũng trong văn kiện ấy, chúng ta mong rằng Đảng sẽ tuyên bố dứt khoát sứ mệnh của người văn nghệ sĩ trước cuộc sống, và định rơ vị trí người văn nghệ sĩ trong xă hội.

Chắc chắn, tiếng nói chân thành và đanh thép của Đảng sẽ mở ra cho nghệ thuật Việt Nam những chân trời mới.

Muốn cho văn nghệ sĩ hăm hở đi vào chân trời mới kia, thiết tưởng điều kiện vật chất không phải không quan trọng.

Từ trước tới nay, đời sống vật chất của một số lớn người công tác nghệ thuật như thế nào?

Ai cũng biết rằng đời sống của chúng ta thiếu thốn quá. Đấy là sự thực buồn bă vẫn hàng ngày đập vào mắt chúng ta, làm những kẻ đơn giản nhất cũng phải ít nhiều suy nghĩ.

Chúng ta không thắc mắc ǵ về cảnh sống chật vật trong kháng chiến. Bấy giờ, dù trèo rừng xanh, ăn mỗi ngày một miếng cơm cháy, người nào cũng vui ḷng v́ nghĩ rằng: trước mắt chúng ta, chỉ có hai chữ tự do hay nô lệ. Nhưng trở về Hà Nội, giữa những phố xá đầy lụa, tủ kính và ánh đèn xanh đỏ, có lẽ chưa bao giờ người nghệ sĩ cảm thấy cay đắng như lúc này.

Cần nói thẳng rằng ở một toà soạn báo văn nghệ, trong số tám biên tập viên có vợ, th́ sáu người vợ đă thất nghiệp hay bán thất nghiệp.

Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng viết những bài thơ, cũng đă bao nhiêu lần biến thành lá đơn xin việc. Nhưng những lá đơn ấy gửi đi, để rồi im lặng không nghe một tiếng trả lời.

Sự thực đă có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà-phê để uống. Đă có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá hút trong cơn nghiện. Và đă có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của ḿnh để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng sách in ra không đủ để chuộc lại đồng hồ.

Hữu Loan có thể nói cho chúng ta biết t́nh cảnh của anh hai năm nuôi vợ nuôi con đă chất đầy nợ trên vai gầy của người thi sĩ. Nằm trong bóng tối căn nhà nhỏ ngoại ô Hà Nội, khi không c̣n tiếng vợ kêu và trẻ con khóc, Hữu Loan chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu thức viết.

Văn Kư cũng có thể nói cho chúng ta biết t́nh cảnh của anh. Buổi sớm mai củ khoai luộc không có cho con ăn. Nghe tiếng con khóc mà đứt ruột.

Khoai không thể mua cho con, nói ǵ đến ước mơ có những con búp bê mang giá hai vạn đồng ở cửa hàng mậu dịch. Có một nhà văn, đau xót quá, viết vào nhật kư thế này: “Ừ nhỉ, người ta bày những con búp bê tóc vàng ấy trong ngăn tủ để làm ǵ? Tại sao người ta cứ muốn phô ra trước mắt những người cha một sự mỉa mai nhức nhói?”.

Nước ta c̣n nghèo, ai cũng biết đó là t́nh trạng chung. Lúc này, chính phủ và nhân dân ta đương cố thắt lưng buộc bụng để xây dựng lại một đất nước đầy vết thương. Nhưng, tiếng súng đă im từ hai năm rồi. Chúng ta không đ̣i hỏi ǵ hơn một điều kiện vật chất tương đối, để có thể thảnh thơi tâm hồn mà sống mà viết. Cần phải chú trọng tới điều này, nếu muốn nghệ thuật của nước nhà tiến mạnh.

Tôi muốn nói đến vấn đề phụ cấp.

Từ xưa tới nay, ai cũng biết rằng tất cả văn nghệ sĩ trên thế giới đều sống bằng tác phẩm của ḿnh. Chưa bao giờ và chưa có nước nào, người nghệ sĩ, để làm nghệ thuật, lại sống bằng lương của Bộ Tài chính. T́nh trạng đó thật không hợp lư, nhưng biết làm thế nào? Đại đa số nhân dân ta vừa bước ra khỏi bóng tối, hôm nay mới bắt đầu cầm sách. Đồng ruộng cũng mới thoát khỏi tay ḥm ch́a khoá của giai cấp địa chủ. Nạn thất nghiệp ở thành phố không phải đă tan hết. Thật vậy, trong hoàn cảnh ấy, người nghệ sĩ chưa thể sống bằng bản quyền của ḿnh. Rơ ràng cần có một cái gọi là “phụ cấp văn nghệ”. Chúng ta mong rằng Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu loại phụ cấp ấy cho thật thích đáng. Một phụ cấp thế nào để không thể có một nhà văn nào chết v́ ho lao. Và nhất là nghiên cứu thế nào, để trong hoàn cảnh hiện nay, văn nghệ sĩ phải trả lại một phần nhỏ bằng tiền bản quyền của ḿnh.

Chúng ta c̣n mong chính phủ sẽ ban bố một đạo luật về tự do xuất bản, giúp đỡ về giấy má và việc phát hành của các nhà xuất bản và các báo văn nghệ tư nhân. Điều này có tầm quan trọng đặc biệt của nó. Giải quyết được, tức là bảo đảm được phần nào đời sống vật chất của nhà văn, khuyến khích một cách thiết thực việc trăm hoa đua nở.

Đồng thời, chúng ta cũng đề nghị chính phủ ban bố một sắc lệnh về bản quyền tác giả. V́ thực tế ở nước ta, một số ít nhà xuất bản vẫn c̣n giữ quan niệm ban ơn cho văn nghệ sĩ. Những người này cho rằng tác giả chỉ ước mơ được in tên ḿnh lên b́a sách, c̣n bản quyền nhiều hay ít không thành vấn đề.

Và để bảo đảm sắc lệnh được thi hành trọn vẹn, thiết tưởng tổ chức cao nhất của phong trào văn nghệ sau này cần thành lập một ban “bảo đảm quyền tác giả”. Nếu ở Liên Xô, “Hội bản quyền tác giả” đấu tranh cho cả quyền lợi những nhà văn đă mục xương từ bao nhiêu thế kỷ, và can thiệp bất cứ vụ vi phạm nào đối với các tác giả đă chết, th́ tại sao ở Việt Nam, những người đang sống, đang viết, đang ăn và đang mặc lại không có một ban nào để bảo đảm cho cơm và áo của ḿnh?

Hai điều kiện vật chất và tinh thần trên đă đầy đủ đối với sự sáng tạo của người nghệ sĩ chưa?

Thật ra, đó mới là hai yếu tố đầu tiên. Điều căn bản quyết định vấn đề này, chính là tổ chức sống và viết.

Không có một tổ chức hoàn bị, th́ chưa thể có nhiều tác phẩm hay. Không có tổ chức, người nghệ sĩ sẽ lạc lơng giữa cuộc đời không hơn một cái bóng.

Hiện nay, ai cũng phải nhận rằng nghệ thuật của chúng ta đă lớn vượt lên. Nếu những người thanh niên phải bỏ cái áo thiếu nhi để may áo người lớn, th́ tổ chức Hội Văn nghệ hôm nay cũng đă đến lúc cần phá vỡ.

Hơn lúc nào hết, yêu cầu trước mắt của chúng ta là: phải thành lập những tổ chức mới, những Hội Nhà văn, Hội Nhạc sĩ, Hội Hoạ sĩ và Hội Sân khấu.

Ngay cả Ban Chấp hành cũ, cũng đă đến lúc không thể tồn tại. Ban Chấp hành ấy do Đại hội Văn nghệ lần thứ nhất bầu ra, tới nay cần thành thật nói rằng nhiều người đă mất hết tín nhiệm của anh chị em. Ban Chấp hành ấy đă đóng hết vai tṛ lịch sử của ḿnh rồi, hiện nay nói chung chỉ c̣n đại diện cho một tập đoàn quan niệm hẹp ḥi cũ kỹ đang tan ră. Đại hội lần thứ hai của chúng ta cần kéo trúc nó xuống, và ngoài vài người cũ c̣n được tín nhiệm, phải bầu những người lănh đạo mới không có tinh thần bè phái và óc bảo thủ, trái lại, có đủ dũng cảm và khả năng lănh đạo những lực lượng văn nghệ đang vươn lên.

Tôi nghĩ rằng việc thành lập các hội, định danh sách hội viên, nhất định cũng không thể do một số người nào quyết đoán, nhất là không thể do Ban Chấp hành cũ của Hội Văn nghệ quyết đoán. Hôm nay, có thể nói rằng họ không c̣n đại diện cho nguyện vọng của văn nghệ sĩ, ư kiến của họ chỉ là những ư kiến cá nhân mà phần lớn đă mang vết mốc. Các hội nghệ thuật là hội quần chúng, dứt khoát phải do quần chúng quyết định.

Trên nguyên tắc đó, việc tổ chức các hội phải làm theo ư kiến của đại đa số văn nghệ sĩ. Nó phải dân chủ và tập thể đến triệt để.

Theo ư tôi, muốn tiến hành, tôi đề nghị làm theo “kế hoạch bốn bước”.

Trước hết cần triệu tập hội nghị của từng ngành văn thơ, nhạc, hoạ, kịch ngay trong Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai. Mỗi ngành như thế sẽ góp ư kiến tổ chức hội của ḿnh như thế nào? Họ sẽ định rơ tiêu chuẩn hội viên. Họ sẽ thảo luận về quyền lợi tinh thần và vật chất cụ thể của hội. Họ sẽ bàn bạc thêm nhiều chi tiết khác. Sau đó, họ sẽ bầu ra một ban trù bị thành lập hội, trong ban này nhất định phải có mặt anh em lớp trước và anh em lớp sau. Nhiệm vụ của ban trù bị là: căn cứ trên đề án của tập thể mà nghiên cứu thành lập danh sách hội viên, và thảo các bản tuyên ngôn, tôn chỉ và điều lệ của hội.

Khi sự chuẩn bị này xong xuôi, có lẽ tất cả những người đi họp Đại hội Văn nghệ toàn quốc đă trở về địa phương từ lâu. Bởi vậy, trong bước hai, ban trù bị ấy cần triệu tập một cuộc hội nghị trù bị mở rộng, mời tất cả anh chị em văn nghệ chung quanh Hà Nội và đại biểu những người công tác văn nghệ ở các địa phương, để thảo luận và thông qua danh sách các hội viên.

Và thế là Hội Nhà văn, Hội Nhạc sĩ, Hội Hoạ sĩ và Hội Sân khấu đă thành h́nh. Bây giờ đến bước thứ ba: triệu tập đại hội của các hội, các hội viên sẽ thông qua các văn kiện hội ḿnh sắp công bố, và bầu lên ban chấp hành của hội.

Nhưng bốn hội riêng như thế, tôi thiết tưởng chưa đủ. Chúng ta c̣n cần tiến hành bước thứ tư để thành lập một tổ chức cao cấp của văn nghệ, tạm gọi là Hiệp hội Văn nghệ. Ban chấp hành của Hiệp hội này sẽ do các ban chấp hành của các hội bầu ra. Và tổ chức tối cao ấy sẽ có nhiệm vụ nắm vững và lănh đạo phong trào văn nghệ trong cả nước.

Chắc chắn tất cả “Kế hoạch bốn bước” trên đ̣i hỏi một thời gian không ngắn. Nhưng có lẽ chúng ta đều đồng ư rằng: việc thành lập các hội nghệ thuật, tuy nhanh và gọn chừng nào hay chừng ấy, nhưng trước tiên cần làm thật tốt. Giải quyết được chu đáo vấn đề tổ chức này, tức là chấm dứt được những trường hợp không hợp lư trước đây, giải quyết được tất cả những băn khoăn, thắc mắc, và cũng quyết định được tất cả cuộc đời nghệ thuật sau này của mỗi văn nghệ sĩ. Bởi vậy, tầm quan trọng của nó thật là rộng lớn, nó đ̣i hỏi một sự chuẩn bị thật kỹ càng, thật chu đáo và rộng lớn.

Đến đây, tôi muốn nói riêng về Hội Nhà văn. Ắt hẳn mọi người đều cảm thấy đây là một vấn đề đ̣i hỏi những cuộc tranh luận nẩy lửa. Thật ra, tất cả chúng ta sẵn sàng chờ đón những cuộc tranh luận gay go ấy. V́ có lẽ lúc này, mỗi nhà văn đều đă mang trong óc một bản đề án đanh thép của ḿnh.

Là một người viết văn, tôi cũng có bản đề án của riêng tôi.

Gần đây, một dư luận xôn xao về tiêu chuẩn hội viên nhà văn đang lan rộng trong giới cầm bút. Rất nhiều người nh́n lại cái quá khứ sáng tác của ḿnh, và băn khoăn đánh một dấu hỏi lớn: ḿnh có được gọi là nhà văn hay không?

Tôi nghĩ rằng trong vấn đề này, nhất định văn nghệ sĩ không cần sự ban ơn của vài cấp trên nào. Trước tiên, chúng ta chỉ cần quan niệm về tiêu chuẩn cho thật rộng răi.

Chắc chắn số hội viên chính thức của Hội Nhà văn không thể nào thu hẹp trong phạm vi một số người nhất định. Nếu Hội Nhà văn Liên Xô có trên bốn ngàn hội viên, th́ Hội Nhà văn Việt Nam không thể nào chỉ gồm vẻn vẹn vài mươi cây bút cũ, trong đó thật ra nhiều ng̣i bút đă vẹt gần hết. Dựa theo quan niệm khắt khe hẹp ḥi trên, nhất định văn nghệ Việt Nam không thể nào có nhiều tác phẩm khá. Sự thực lại chứng tỏ rằng: có rất nhiều tài năng mới đang mọc lên, hoặc đă nở thành hoa, hoặc vừa mới chớm nụ. Trong t́nh trạng đó, rơ ràng phải mở rộng hội để đón nhận thật nhiều cây bút mới.

Và muốn thế, rơ ràng ban trù bị do anh em bầu lên, khi nhận đơn xin gia nhập hội, cần phải dựa trên nguyên tắc: căn cứ vào sáng tác chứ không căn cứ tuổi tác, và trong sáng tác, căn cứ chủ yếu là chất lượng, chứ không căn cứ nhiều vào số lượng.

Tôi quan niệm rằng: biểu hiện của tài năng mỗi người là ở tác phẩm hay nhất của ḿnh, chứ không phải ở mái đầu bạc hoặc số sách tầm thường đă viết. Một văn sĩ có năm cuốn sách kém, tài năng không thể nào bằng một cây bút trẻ mới viết được một truỵên ngắn hay. Ví dụ bạn trẻ Nguyễn Quang Sáng, anh chỉ mới có một truyện ngắn “Con chim vàng”, nhưng sáng tác nhỏ ấy cũng đủ chứng tỏ khả năng của anh, nếu được những điều kiện bồi dưỡng của hội, có thể trở thành một người viết khá. Nhưng bên cạnh đó, không phải không nên căn cứ ở số lượng tác phẩm hay của mỗi người. V́ có một nhà văn có nhiều sáng tác hay, tất nhiên chứng tỏ tài năng đă bảo đảm hơn một người chỉ mới viết một hai sáng tác tốt.

Với quan niệm ấy, tôi nghĩ rằng trước tiên, hội viên của Hội Nhà văn phải là những người có tài, tài ấy đă phát triển hay đang nẩy mầm, và biểu hiện tài ấy trên nhiều sáng tác hay ít nhất trên một vài sáng tác.

Do đó, hội cũng cần chia làm hai loại: chính thức và dự bị.

Những hội viên chính thức là những cây bút đă lăn lộn với nghệ trong một khoảng thời gian dài hay ngắn, nhưng trước cách mạng hay hiện nay, đă có một số sáng tác nói lên cho cuộc đời biết rằng họ có thể có những tác phẩm khá sau này. Những hội viên này, nếu đang ở các ngành th́ phải tập trung về hội, và trừ một số “nhân sĩ” đặc biệt, cần có một phụ cấp ngang nhau để đi vào cuộc sống mà viết. Ngay cả số người gọi là “nhân sĩ”, cũng chỉ nên có một loại phụ cấp không hơn người chưa “nhân sĩ” bao nhiêu.

C̣n hội viên dự bị, là những bạn trẻ như Nguyễn Quang Sáng, hiện nay hầu hết đang tản mạn ở khắp các ngành. Không thể để cho tài năng họ vừa chớm lên, sẽ ṃn mỏi dần trong những công tác sự vụ. Cần phải sắp xếp lại công tác cho họ, theo kiểu “luân phiên” từng thời gian khá dài. Sau đó, cần phải điều họ về Hội Nhà văn, giúp đỡ bồi dưỡng nghệ thuật cho họ trong một thời gian. Rồi trao cho họ một số phụ cấp ngang với anh em chính thức, và tung họ vào cuộc sống.

Đối với những anh em đă cầm bút nhiều năm hay mới gần đây, nhưng chưa có sáng tác khá, nên giải quyết thế nào?

Tôi đề nghị hai cách: một là dứt khoát không nhận họ vào hội, hai là chỉ nhận một số ít mà xét ra, v́ công tác bận bịu hoặc v́ bị bó buộc vào những điều kiện nào khác nên chưa thể viết hay.

Cũng trong vấn đề hội viên, tôi yêu cầu đặc biệt chú ư đến những anh chị em hiện công tác ở địa phương.

T́nh trạng sau đây không phải là ít: có những tài năng hứa hẹn rất nhiều, hiện nay đang hấp hối trong các tỉnh nhỏ. Những ng̣i bút có thể sáng tác nhiều áng văn hiện nay, hiện đang làm những bài tính ở thuế quan, ở mậu dịch, đang viết những tin ngắn năm ḍng hoặc thảo những đề án tuyên truyền cho xă. Tôi có thể nói ra đây vài trường hợp. Hà Khang, công tác ở Ty Văn hoá Thanh Hoá, kể rằng tấm thẻ hội viên của anh nhận được từ khi Hội Văn nghệ mới thành lập, tới nay đă bạc màu mà chưa bao giờ có một lời khuyến khích của hội. Xuân Hoàng ở Quảng B́nh cũng bị quên lăng, đang âm thầm với những bài ca dao phục vụ buồn bă của ḿnh. Sợi dây liên lạc của trung ương hội với các nhà văn địa phương mỏng manh đến nỗi Vũ Lê, một cây bút trẻ ở Hải Pḥng, đă phải thốt lên một câu chua chát: “Tôi chỉ yêu cầu giải tán quách cái Hội Văn nghệ ấy đi!”

Có thể nói rằng những người này có thừa tiêu chuẩn để vào Hội Nhà văn. Đă đến lúc cần phải mời tất cả những anh em ấy về Hà Nội. Sự thực rơ ràng: chỉ có ở trung ương mới làm được nghệ thuật. Chỉ có trung ương mới có thể phụ cấp về tinh thần và vật chất cho những anh em ấy, và tung họ trở về cuộc sống với những điều kiện sáng sủa hơn.

Ngoài ra, chúng ta c̣n biết rằng tài năng là một cái ǵ không thể ngờ. Có thể vài ba tháng, hay vài ba năm nữa thôi, từ trong quần chúng sẽ xuất hiện những cây bút mới. Mai đây, sẽ có những người công nhân trở thành thi sĩ, và những người nông dân trở thành nhà văn. Tôi đề nghị bên cạnh hai loại chính thức và dự bị, Hội Nhà văn cần có thêm một bộ phận theo dơi những tài năng sẽ đột ngột mọc lên đó, và sẽ có nhiệm vụ mời họ vào Hội Nhà văn. Bên cạnh đó, bộ phận này c̣n có nhiệm vụ giúp đỡ tài liệu và ư kiến cho những cây bút chưa đủ tiêu chuẩn để vào hội.

Sau khi đă được nhận làm hội viên, các nhà văn cần được hưởng những quyền lợi ǵ?

Như tôi đă tŕnh bày, về vật chất, họ cần có một phụ cấp thích đáng và ngang nhau.

C̣n về tinh thần, đối với nhà văn, có lẽ không ǵ sung sướng bằng được đi vào cuộc sống, thu nhận tiếng vang của cuộc sống vào ḷng ḿnh để viết lên trang sách. Những phải làm thế nào để sống mà không bù đầu, để sau này vẫn có thể viết được. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nếu người nghệ sĩ đi về địa phương, bị buộc chặt vào một công tác sản xuất hẳn hoi, họ sẽ rất khó sáng tác. Bấy giờ, muốn làm tṛn trách nhiệm của ḿnh, ít người mở rộng được tầm mắt để nhận xét chung quanh, Bởi vậy, nhà văn có thể đi một năm, hai năm, nhưng chỉ nên nhận một công tác rất nhẹ và không bận bịu.

Trong thời gian ấy, họ phải được liên lạc thường xuyên với trung ương và được bồi dưỡng luôn về mặt nghệ thuật cũng như tư tưởng. Nếu cắt đứt với trung ương, và lệ thuộc hoàn toàn vào sự lănh đạo của địa phương hoặc của một số cán bộ không biết ǵ về nghệ thuật, nhất định nhà văn cũng sẽ trở thành người cận thị.

Đến đây, cần nói thêm Hội Nhà văn nên để hội viên hoàn toàn chọn lấy hướng đi của ḿnh. Tuỳ theo khuynh hướng và ư muốn có người sẽ về đồng ruộng, có người sẽ đến nhà máy, có người sẽ lên rừng, có người sẽ xuống bể, như một trăm người con của bà Âu Cơ xưa. Cũng có thể có người vẫn ở lại phố xá để viết về phố xá. Nghĩa là tất cả sẽ đi, không ai nên ở lại trung ương hội, nếu không bị mắc kẹt vào công tác hội trong một thời gian nhất định.

Sau khi làm những chuyến đi dài như thế, bây giờ vấn đề viết. Theo ư tôi, Hội Nhà văn cần xây dựng vài khu sáng tác ở kề thủ đô. Nước ta c̣n nghèo, ai cũng biết thế. Nhưng nếu đồng chí Sô-lô-khốp đề nghị với Đảng Liên Xô làm nhà ngói cho gia đ́nh nhà văn ở ngay các địa phương họ cần sống, tại sao Hội Nhà văn Việt Nam không thể làm một số nhà tranh, ở một xóm nhỏ có nhiều hoa đào tại ngoại ô Hà Nội? Ngoại ô chúng ta đi về các rạp chiếu bóng chỉ mất nửa giờ đi xe đạp, ở đó vốn rất yên tĩnh, và trứng gà rẻ lắm! Có thể gọi hẳn nơi đây là một “làng văn” chứ sao! Mỗi người dân trong làng sẽ được chia một pḥng riêng, một chiếc giường và một cái bàn. Chỉ cần thế thôi!

Rồi trong sự thực, có thể có những nhà văn chưa cần đi đâu cả, v́ ai dám nói cả quyết rằng họ thiếu thực tế! Những người ấy sẽ ngồi bên bàn viết yên tĩnh của ḿnh, trút lên giấy trắng tất cả sự sống chứa chất trong ḷng từ mười năm nay. Có thể họ sẽ viết chuyện kháng chiến. Có thể họ viết ngay câu chuyện của ḿnh. Có thể họ viết một tháng, lại đi một tháng để lấy tài liệu. Rồi tất nhiên có những nhà văn, sau một chuyến đi hàng năm trở về, lại ngồi hàng năm để viết. Những căn nhà gianh ngoại ô chính là những nhà hộ sinh không có bà đỡ. Ở đấy, tất cả làng văn sẽ trao đổi về những thai nghén nóng hổi của ḿnh. Và từ nơi đấy, chúng ta hăy tin chắc chắn sẽ xuất hiện những tác phẩm lớn.

Sách đă viết, và nhất định ngày càng nhiều, không lẽ để nằm chết đó. Hội Nhà văn cần thành lập nhà xuất bản riêng của hội, nó phải có quy mô rộng hơn nhà xuất bản Văn nghệ hiện nay.

Cũng trong hoàn cảnh có nhiều sáng tác, tất nhiên nên đóng cửa tờ báo Văn nghệ bây giờ để thay vào hai tạp chí mới. Một tạp chí phê b́nh lư luận, đối tượng là văn nghệ sĩ và một số cán bộ học sinh.

Bên cạnh đó, cần có tạp chí sáng tác, đối tượng là quần chúng và ngoài một số rất ít người thường trực ra, ban biên tập sẽ là tất cả hội viên sáng tác của Hội Nhà văn.

Với tất cả những h́nh thức trên mới đáp ứng được những đ̣i ḥi thiết tha của văn nghệ sĩ và của bạn đọc.

Ở đây, có lẽ cũng phải nói tới một t́nh trạng cần chấm dứt trong trường hợp có những bộ máy kềnh càng như thế.

Hai năm hoà b́nh, chúng ta đă thấy nhiều nhà văn có tài bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa hoa có tẩm chất độc. Tác phẩm của họ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo. Họ trịnh trọng thắt cà-vạt-đỏ, đi giầy da vàng đọc đít-cua và nhồm nhoàm ăn tiệc. Rồi họ c̣n xách va-li, bay đó bay đâu trên mây gió.

Đă đến lúc đừng bắt những người đau khổ một cách sung sướng ấy mang tất cả những cà-vạt, giầy da, va-li và ăn tất cả những bữa tiệc. Chúng ta đang cần đến tài năng của họ. Chúng ta yêu cầu họ hăy khoác vào người bộ quần áo vải, đi vào chân đôi dép cao su đen để xuống với quần chúng.

V́ lư do đó, tất cả bộ máy sau này của các ban chấp hành, của nhà xuất bản và tạp chí sáng tác cần được giản đơn hẳn. Và nếu nhà văn không may nào phải ở lại với chức vụ của ḿnh, cần tổ chức luân phiên mỗi nhiệm kỳ là một năm, để họ cũng được hưởng quyền lợi như tất cả những anh em khác.

Hôm nay, ai cũng biết rằng quần chúng đang bỏ xa chúng ta. Con em những người nông dân, công nhân và thị dân đang ngồi chật tất cả những trường học mới. Ít lâu nữa, bao nhiêu lớp chủ nhân trẻ tuổi kia sẽ trùng trùng tiến ra khỏi những trường trung học và đại học.

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa.

Hơn bao giờ hết, quần chúng đ̣i hỏi ở chúng ta một nghệ thuật thật tươi đẹp giàu có. Và hơn bao giờ hết, tất cả văn nghệ sĩ phải cống hiến được cho thời đại những tác phẩm xứng đáng với thời đại.

Các đồng chí! Mỗi chúng ta có lửa cháy trong tim. Chúng ta có ḷng chân thành và chí dũng cảm. Nhất định phải tiến thẳng tới tương lai. Đại hội văn nghệ lần thứ hai sẽ mở cho chúng ta những con đường sáng sủa.

Tháng 9-56

 

Nguồn: Giai phẩm mùa Thu 1956 -Tập II, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Trần Công, Trần Duy, Quang Dũng, Hoàng Huế, Phan Khôi, Hồng Lực, Hữu Loan, Sỹ Ngọc, Bùi Xuân Phái, Phùng Quán, Trương Tửu, Lê Đại Thanh, Tô Vũ, Trần Lê Văn. Tranh khắc gỗ trong hầm mỏ của Bùi Xuân Phái, in tại nhà in Quảng Nghi do Ngô Quang Thịnh trông nom. B́a của Sỹ Ngọc, in tại nhà in Minh Đức, do Nguyễn Viết Thưởng trông nom. Bản khắc của nhà Tiến Mỹ, Minh Đức xuất bản, in tại nhà in Sông Lô, Hà Nội, hoàn thành ngày 30-9-1956, khổ 16 x 24, 72 trang số in 318, số xuất bản 49, số sách in… Nộp lưu chiểu tháng 9-1956 tại Hà Nội. Bản điện tử do talawas thực hiện.

( * ) - Giai Phẩm Mùa Xuân
(
* ) - Giai Phẩm Mùa Thu Tập I
( * ) - Giai Phẩm Mùa Thu Tập III
(
* ) - Giai Phẩm Mùa Đông Tập I